70 bài suy niệm CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Gr. 23, 1-6; Ep. 2, 13-18;
Mc. 6, 30-34
1. Mục tử ân cần.
PAGEREF _Toc519879971 \h 4
2. Mục tử.
PAGEREF _Toc519879972 \h 6
3. Thương đàn chiên bơ vơ – ViKiNi
PAGEREF _Toc519879973 \h 8
4. Xin đừng vô cảm..
PAGEREF _Toc519879974 \h 12
5. Thời giờ cho Chúa và cho nhau.
PAGEREF _Toc519879975 \h 15
6. Tìm kiếm lương thực nuôi hồn.
PAGEREF _Toc519879976 \h 19
7. Tinh thần mục tử.
PAGEREF _Toc519879977 \h 22
8. Người chạnh lòng thương.
PAGEREF _Toc519879978 \h 24
9. Thiên Chúa chăn dắt dân.
PAGEREF _Toc519879979 \h 28
10. Làm việc và cầu nguyện – Lm. GB Văn Hào.
PAGEREF _Toc519879980 \h 32
11. Bận rộn – Lm Vũ Đình Tường.
PAGEREF _Toc519879981 \h 37
12. Hao mòn – Lm Vũ Đình Tường.
PAGEREF _Toc519879982 \h 39
13. Lắng đọng và bình an – Thiên Phúc
PAGEREF _Toc519879983 \h 43
14. Chúa Nhật 16 Thường Niên.
PAGEREF _Toc519879984 \h 46
15. Đời sống cần có Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
PAGEREF _Toc519879985 \h 48
16. Mục tử và đàn chiên.
PAGEREF _Toc519879986 \h 51
17. Nghỉ ngơi một chút
PAGEREF _Toc519879987 \h 54
18. Chúa Nhật 16 Thường Niên.
PAGEREF _Toc519879988 \h 57
19. Mục Tử - Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
PAGEREF _Toc519879989 \h 60
20. Nghỉ ngơi đôi chút
PAGEREF _Toc519879990 \h 65
21. Hãy nghỉ ngơi
PAGEREF _Toc519879991 \h 68
22. Lời khuyên thiết thực
PAGEREF _Toc519879992 \h 72
23. Thiên Chúa chăm sóc đoàn chiên Ngài
PAGEREF _Toc519879993 \h 77
24. Chân dung vị lãnh đạo – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
PAGEREF _Toc519879994 \h 92
25. Vị mục tử.
PAGEREF _Toc519879995 \h 97
26. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
PAGEREF _Toc519879996 \h 99
27. Mẫu gương mục tử.
PAGEREF _Toc519879997 \h 103
28. Nghỉ ngơi trong Chúa.
PAGEREF _Toc519879998 \h 108
29. Chạnh lòng thương – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu.
PAGEREF _Toc519879999 \h 110
30. Khi con tim lao xao.
PAGEREF _Toc519880000 \h 113
31. Chúa Nhật 16 Thường Niên.
PAGEREF _Toc519880001 \h 117
32. Chúng ta hoạt động đến đâu – Yvon Daigneault.
PAGEREF _Toc519880002 \h 121
33. Chúng ta cần một sự quân bình – Charles E.
Miller.
PAGEREF _Toc519880003 \h 124
34. Làm sao để đáp ứng các nhu cầu của con người?.
PAGEREF _Toc519880004 \h 127
35. Tìm đến với Chúa Giêsu.
PAGEREF _Toc519880005 \h 129
36. Bản tường trình của giám mục
PAGEREF _Toc519880006 \h 133
37. Suy niệm của Noel Quesson.
PAGEREF _Toc519880007 \h 135
38. Mục tử.
PAGEREF _Toc519880008 \h 137
39. Nghỉ ngơi.
PAGEREF _Toc519880009 \h 139
40. Kiểm thảo.
PAGEREF _Toc519880010 \h 143
41. Bốn vị mục tử – Lm. Mark Link, S.J.
PAGEREF _Toc519880011 \h 146
42. Nghỉ ngơi.
PAGEREF _Toc519880012 \h 150
43. Chăm sóc.
PAGEREF _Toc519880013 \h 153
44. Mục tử.
PAGEREF _Toc519880014 \h 156
45. Lòng thương.
PAGEREF _Toc519880015 \h 159
46. Vắng vẻ.
PAGEREF _Toc519880016 \h 162
47. Lời Chúa.
PAGEREF _Toc519880017 \h 166
48. Bình an.
PAGEREF _Toc519880018 \h 170
49. Tìm về nội tâm của bản thân.
PAGEREF _Toc519880019 \h 172
50. Bức tranh toàn cảnh về Tin Mừng Cứu Độ.
PAGEREF _Toc519880020 \h 174
51. Ân cần với mọi người
PAGEREF _Toc519880021 \h 178
52. Đức Giêsu chạnh lòng thương – JKN.
PAGEREF _Toc519880022 \h 183
53. Lòng thương của Chúa.
PAGEREF _Toc519880023 \h 189
54. Người chạnh lòng thương.
PAGEREF _Toc519880024 \h 192
55. Đi tìm con người – Lm. Nguyễn Lộc Hòa.
PAGEREF _Toc519880025 \h 194
56. Tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi
PAGEREF _Toc519880026 \h 196
57. Chúa Nhật 16 Thường Niên.
PAGEREF _Toc519880027 \h 200
58. Chúng ta hoạt động đến đâu.
PAGEREF _Toc519880028 \h 202
59. Kiểm điểm.
PAGEREF _Toc519880029 \h 205
60. Người chạnh lòng thương.
PAGEREF _Toc519880030 \h 208
61. Đức Giêsu, các Tông Đồ và dân chúng.
PAGEREF _Toc519880031 \h 211
62. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
PAGEREF _Toc519880032 \h 218
63. Chú giải của Noel Quesson.
PAGEREF _Toc519880033 \h 220
64.
Chú giải của William Barclay.
PAGEREF _Toc519880034 \h 226
65. Đồng xanh yêu thương.
PAGEREF _Toc519880035 \h 229
66. Chạnh lòng – Trầm Thiên Thu.
PAGEREF _Toc519880036 \h 233
67. Chuyện ăn uống.
PAGEREF _Toc519880037 \h 240
68. Tấm lòng – An Phong, OP.
PAGEREF _Toc519880038 \h 249
69. Chân dung vị lãnh đạo – Như Hạ, OP.
PAGEREF _Toc519880039 \h 251
70. Lòng thương của Chúa.
PAGEREF _Toc519880040 \h 256
Bấy giờ các môn đệ đi
rao giảng trở về. Các ông có nhiều chuyện để kể lại cho Chúa Giêsu nghe, nhưng
các ông không làm được, bởi vì đám đông dân chúng cứ đòi Ngài phải nói với họ
hay thực hiện một việc làm kỳ diệu nào đó, cho họ được thoả lòng. Chúa Giêsu
muốn các ông rút vào một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, nhưng dân chúng vẫn đi
theo, đến độ các ông không có giờ để mà ăn và rồi giờ thì đã muộn, quanh cảnh
lại hoang vắng, nên bắt buộc các ông phải nghĩ đến chuyện họ đói phải cho ăn.
Chính trong bối cảnh ấy đã diễn ra phép lạ hoá bánh ra nhiều.
Điểm nổi bật trong thái
độ của Chúa Giêsu đó là lòng ân cần. Chúa Giêsu xuất hiện như một người đang
chăm lo cho những kẻ chung quanh. Chúng ta đã quá quen với những điều mà thiên
hạ vốn thường lặp đi lặp lại rằng: Người Kitô hữu phải lắng nghe người khác,
phải lưu tâm tới các tiếng gọi. Thế nhưng thiết tưởng, chúng ta nên làm trẻ lại
cách nhìn của chúng ta và hãy xem cách Chúa Giêsu đón tiếp các môn đệ khi các
ông trở về. Cũng như hãy xem Chúa Giêsu đối diện với đám đông đang háo hức tìm
gặp Ngài và Ngài đã động lòng thương xót họ vì họ bơ vơ lạc lõng như đàn chiên
không người chăn. Và đây cũng là điều chúng ta phải lưu ý: Đoàn chiên thiếu
người chăn. Một đám đông, đang đói lời giảng dạy, đang khát sự hấp dẫn.
Thực vậy trải dài suốt
hai mươi thế kỷ, lời cảnh giác của Chúa vẫn còn là một sự khẩn cấp: lúa chín thì
nhiều mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ sai thợ đến gặt lúa của mình.
Biết bao nhiêu người trên thế giới, khát khao tìm gặp Chúa, nhưng lại không có
ai hướng dẫn cho họ. Biết bao nhiêu người còn ngồi trong bóng tối, nhưng lại
không có ai soi chiếu cho họ. Biết bao nhiêu đàn chiên không có người chăn, nên
phải bơ vơ lạc lõng.
Thế nhưng trước một
hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì? Đó mới là điều quan trọng. Bởi vì như
danh ngôn Tây phương cũng đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó
mà rủa sả bóng đêm.
Bằng đời sống đạo đức
và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng ta có thể trở thành một tay thợ trên
cánh đồng của Chúa, một ngọn đèn le lói trong đêm tối, một kẻ tiếp giúp cho việc
hướng dẫn đoàn chiên.
Thiên Chúa đã dùng tiên
tri Giêrêmia để quở trách và kết án những người lãnh đạo dân Chúa. Họ chẳng lo
lắng đến dân chúng lại còn làm cho dân chúng phải điêu đứng và phân tán. Tuy
nhiên Thiên Chúa đã mở ra cho thấy một viễn tượng tươi sáng. Mầm công chính xuất
phát từ dòng Đavít, sẽ làm vua thống trị, sẽ thực thi hoà bình và công lý. Đó
chính là Chúa Giêsu.
Thực vậy, Chúa
Giêsu là mục tử nhân lành mà tiên tri Giêrêmia đã diễn tả. Ngài thương
dân vì họ bơ vơ không có chủ chăn và ngài băt đầu dạy họ nhiều điều. Ngài như
đồng cỏ non và như dòng suối mát để xoa dịu cơn đói khát của con người. Thế giới
ngày nay tràn ngập ngôn từ, đầy dẫy những lời lẽ tuyên truyền và quảng cáo, thì
liệu còn chỗ nào dành cho lời Chúa hay không. Nếu con người nghe theo tiếng Chúa
và bước đi trong đường lối của Ngài thì ngày kia, chỉ còn lại một đoàn chiên và
một chủ chiên. Chúa Giêsu không phải là kẻ chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc. Trái
lại Ngài chăm sóc cho từng con chiên một, băng bó những con bị thương, và vác
lên vai con bị đau yếu. Ngài dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, và tới dòng suối
mát. Ngài dám thí mạng sống để bảo vệ đoàn chiên, và cuối cùng, Ngài đã trở nên
của ăn nuôi sống cho đoàn chiên.
Tiếp đến Chúa
Giêsu còn là vị mục tử hoà giải. Tội lỗi đem lại sự phân cách với Thiên
Chúa, sự bất hoà với nhau và sự hỗn loạn trong xã hội. Như lời sách Sáng Thế Ký
đã nói: Vì ngươi bất tuân nên đất đai sẽ nguyền rủa ngươi. Người mục tử đích
thực của đoàn chiên sẽ tiêu diệt tội lỗi, xoá bỏ đi sự ngăn cách giữa trời và
đất, sự thù hận giữa người với người. Bằng thập giá, Ngài đã thực hiện được mục
đích đó, đồng thời tụ họp chúng ta lại với nhau. Đôi tay Ngài dang rộng như muốn
ôm trọn cả nhân loại như lời thánh Phaolô: Chúng ta trở nên gần gũi nhau nhờ máu
Đức Kitô. Cây thập giá gồm hai nét. Nét dọc nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa.
Còn nét ngang nối kết chúng ta lại với nhau.
Sau cùng Chúa
Giêsu là mục tử an bình. Ngài đã thực hiện lời tiên tri Giêrêmia, tách
biệt khỏi những kẻ chăn thuê vì lợi lộc để chứng thực mình là mục tử nhân lành.
Ngài xua đuổi chó sói, và những kẻ cướp bóc. Ngài dạy dỗ và cứu vớt những con
chiên lạc, dẫn đưa đoàn chiên tới đồng cỏ xanh tươi. Đi bên Ngài chúng ta không
còn sợ hãi chi, và không lo thiếu thốn thứ gì cả. Ngài chính là sự sáng. Đi theo
Ngài chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
(Trích trong ‘Xây Nhà
Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Hai sự kiện lịch sử lớn
nhất thế kỷ hai mươi là:
Việc mở cổng Brandenburg và phá đổ bức tường ô nhục Berlin trước
lễ Giáng Sinh năm 1989, đã chấm dứt 28 năm chia đôi nước Đức và chiến tranh lạnh
thế giới giữa hai phe hận thù tư bản và cộng sản, mở ra một kỷ nguyên mới hòa
bình và tin tưởng lẫn nhau. Thế giới hy vọng có những chủ chiên nhân lành,
thương dân, xây dựng một thế giới đoàn kết, phát triển.
Việc thứ hai là dân tộc Israel và Palestin đã hạ súng xuống, sau
hơn 30 năm chém giết nhau. Giữa tháng 7 năm 1994, ông Arafát chủ tịch Palestin
đã về nước và tuyên bố: “Palestin và Israel cùng một tổ tiên”. Họ không còn
những chủ chiên giả dẫn dắt vào con đường lầm lạc, hận thù, cuồng tín, tan nát.
Họ đã được giải thoát khỏi những kẻ mù dắt mù xuống hố.
Người ta đã kể đến
những vĩ nhân có công trực tiếp chấm dứt thời kỳ làm tán loạn thế giới là: Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, ông Walesa: chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Balan, ông
Gorbachov: tổng bí thư Liên bang Xô viết và ông Reagan: tổng thống Mỹ. Thực ra,
họ chỉ là những sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô mới là người phá
bức tường chia rẽ hận thù giữa loài người với Thiên Chúa, giữa dân tộc với dân
tộc, giữa cá nhân với cá nhân.
Thánh Phaolô đã nói rõ
vai trò đó của Đức Giêsu Kitô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô: “Trước kia anh em
là những kẻ ở xa đối với Thiên Chúa, thì nay trong Đức Kitô, anh em đã trở nên
những người ở gần … Chính Người đã liên kết dân Do thái và dân ngoại thành một.
Người đã hiến thân để phá đổ bức tường ngăn cách là hận thù. Như vậy, nơi bản
thân, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới và thiết lập hòa bình. Nhờ
thập giá, Người đã quy tụ đôi bên trong một thân thể duy nhất, và cho họ được
giao hòa với Thiên Chúa”. Tin mừng hôm nay cho thấy tấm lòng của Chúa Giêsu
thương mến đám đông dân chúng biết bao: “Đến nỗi dầu mỏi mệt, đói khát đến đâu
Người vẫn sẵn sàng tiếp đón họ, dạy dỗ và cứu chữa họ, không để họ bơ vơ thất
vọng”. Thiếu vắng Người, họ như đàn chiên không người chăn dắt. Dân Do thái và
dân ngoại thời đó, giống như bầy chiên bơ vơ, lạc lõng. Đất nước bị quân La mã
đô hộ. Vua quan như Hêrôđê chỉ là tay sai đế quốc bóc lột dã man. Hêrôđê có
nhiều con, nhưng chính tay ông đã giết hết, chỉ còn bốn hoàng tử. Dân chúng hơi
bị nghi ngờ là bắt giết. Một hôm vua giả dạng thường dân đến làng quê, gặp ông
già, vua hỏi: “Ông nghĩ về vua thế nào?”. Ông đáp: “Chim trời cũng là tình báo
cho vua, còn ai dám nói điều gì” (Lm. Bửu Dưỡng, Ngôn hành dưới đất, 1965. tr.
37).
Đời đã bị xiết chặt,
đạo cũng bị phân tán trăm bè bảy mối: phái Sađốc lo ăn chơi bám gót đế quốc;
phái tư tế lo giữ địa vị, sợ đế quốc cách chức, dẹp bỏ; phái Pharisiêu bày đặt
ra những luật tỉ mỉ, kiêng cữ bên ngoài để gò ép dân chúng sống khắt khe. Mỗi bè
phái lôi kéo dân chúng theo mình. Dân chúng không còn biết chủ chăn nào chân
chính, chủ chăn nào của Thiên Chúa. Đúng như lời Chúa phán trong bài đọc một:
“Khốn thay những mục tử đã làm cho đàn chiên trong đồng cỏ của Ta phải tản lạc
chết chóc”.
Giờ đây, Đức Giêsu đến
để cho họ nhận ra Người là chủ chăn của Thiên Chúa. Người nói: “Tôi chính là mục
tử nhân lành. Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống mình cho chiên … cho chiên
được sống và sống dồi dào. Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và
chiên Tôi biết Tôi … Tôi là cửa cho chiên ra vào, ai qua Tôi mà vào thì sẽ được
cứu”.
Đức Giêsu còn dạy cho
dân chúng biết kẻ chăn giả, không qua cửa mà vào, chúng chỉ đến để ăn trộm, giết
hại và phá hủy … chúng không thiết gì đến chiên. Khi sói đến, chúng bỏ chiên mà
chạy, để mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn (Ga. 10, 1-14).
Ngày nay, Giáo Hội của
Đức Giêsu đang thực thi sứ vụ mục tử nhân lành, luôn luôn chỉ dẫn cho nhân dân
thế giới biết những kẻ chăn chiên giả. Họ là trộm cướp, tham nhũng, bóc lột, đàn
áp chiên để chiếm tài sản, danh vọng, chức quyền. Họ sống giàu sang phú quý, xa
hoa như những ông hoàng bà chúa thời phong kiến độc tài. Dân chúng sống nghèo
khổ, lại phải đóng góp thuế má mọi mặt, phải hạn chế sinh sản, lại tự do sống
đồi trụy và phá thai. Dân chúng không còn chủ chăn chân chính mà chỉ có trộm
cướp.
Trung tuần tháng 8 năm
1997, một mục tử nhân lành, dầu đã 77 tuổi, sức yếu, chân chồn, vẫn đến Paris,
thủ đô nước Pháp, gặp gỡ, yêu mến, săn sóc và khuyến khích hàng triệu con chiên
giới trẻ bơ vơ, biết mạnh mẽ sống yêu thương, đoàn kết, tin tưởng gắn bó chặt
chẽ với Đức Kitô, Chúa chiên nhân lành, trẻ trung, đã hy sinh cho họ được sống
và sống dồi dào. Ngày nay, còn được bao nhiêu mục tử nhân lành như vậy? Còn được
bao nhiêu linh mục, thày dạy, cha mẹ biết thấy con chiên đông đảo bơ vơ thì
chạnh lòng thương để hy sinh phục vụ con chiên như Chúa chiên lành Giêsu xưa?
Lạy Chúa Giêsu, Người đã lăn xả xuống trần gian, đi tìm đàn chiên
tản lạc và soi sáng dạy dỗ họ bằng lời hằng sống, cứu chữa hồn xác họ được lành
mạnh, tin tưởng. Họ được no thỏa nằm nghỉ ngơi trong đồng cỏ tình yêu xanh tươi
êm ái của Người. Còn bao nhiêu tâm hồn bơ vơ thất bại trên thế giới hoang dã
này, xin Chúa cho họ được thấy đường Người đi mà chạy đến gặp gỡ Người để được
sống và sống dồi dào.
(Suy niệm của Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi
không có tình thương”. Sự lạnh lùng con tim khiến cho tình người giá rét đến nỗi
không thể thổi hơi ấm tình người cho nhau. Trái tim lạnh lùng đã khiến họ co ro
trong vỏ ốc ích kỷ cá nhân mà không thể vươn ra với đồng loại. Sống giữa xã hội
lạnh băng tình người, ta sẽ cảm thấy cái lạnh xuyên thấu tâm can, nó dẫn ta đến
nỗi đau tột cùng của sự cô đơn.
Cái lạnh tình người ấy
dường như đang bao phủ trong xã hội việt Nam hôm nay. Theo kết quả mới công bố
của hãng khảo sát quốc tế Gallup, Việt Nam xếp thứ 13 trong những quốc gia vô
cảm nhất thế giới. Thực hư của khảo sát không biết đúng hay sai? Nhưng càng
ngày, chúng ta càng phải chứng kiến những câu chuyện đau lòng, những vụ việc vi
phạm pháp luật nghiêm trọng. Chuyện nữ sinh đánh nhau được các bạn cổ vũ nhiệt
tình; chuyện bác sĩ thờ ơ, tắc trách làm chết bệnh nhân; chuyện bảo mẫu, cha mẹ
bạo hành con trẻ đến chết; chuyện những vụ án giết người man rợ… khiến người ta
không khỏi bàng hoàng về sự suy đồi đạo đức mà biểu hiện rõ nhất là sự vô cảm
của con người. Người ta lo ngại “bệnh vô cảm” đang có sức lây lan rất lớn, len
lỏi khắp mọi ngõ ngách của đời sống xã hội.
Sự vô cảm của con người
dâng cao đến độ vô tâm làm hại nhau bằng đầu độc thuốc độc hại trong thực phẩm,
trong trái cây. . . Dường như trong tất cả các trái cây hay rau xanh bán ở thị
trường Việt Nam hôm nay đều được xịt thuốc trước hoặc sau. Đó là hành động giết
người, là tội ác, là vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Thế nhưng, những sát thủ
này vì lợi nhuận vẫn thản nhiên bơm thuốc vào thực phẩm để bán. Sư vô tâm còn
man rợ đến nỗi gây nguy hiểm cho tha nhân khi chạy xe ẩu, lạng lách, đánh võng
và thiếu nhường nhịn nhau trong giao thông đã gây nên hàng vạn cái chết thương
tâm.
Trước một xã hội lạnh
giá như vậy thì cần lắm một ngọn lửa tình người được thắp lên. Cần lắm những con
người vượt lên trên lợi nhuận để sống có lương tâm, có đạo đức, có tình người.
Đừng vì lợi nhuận mà đầu độc thuốc vào thực phẩm. Đừng vì vô tâm mà thấy nguy
hiểm với tha nhân mà vẫn thản nhiên.
Giữa một xã hội lạnh
lùng tình người thì cần lắm một đời sống chứng nhân của người ky-tô hữu. Người
ky-tô hữu phải sống cho Tin mừng. Một Tin Mừng của yêu thương không tham lam của
người và biết chia sẻ cơm bánh cho người nghèo khó. Một Tin mừng của tình người
luôn biết chạnh lòng thương xót những khổ đau của tha nhân, và sẵn lòng cúi
xuống phục vụ mà không mong đền đáp. Một Tin Mừng của công lý và hòa bình để
người người biết tôn trọng nhau, tôn trọng luật pháp hầu xây dựng một thế giới
hòa bình yêu thương.
Chúa Giêsu đã sống yêu
thương. Tình yêu của Ngài trải rộng cho mọi người. Trái tim Ngài luôn chạnh lòng
xót thương những mảnh đời khổ đau. Ngài luôn dấn thân xây dựng một thế giới công
bằng bác ái. Ngài luôn đặt lợi ích tha nhân lên trên quyền lợi bản thân. Phúc âm
ghi rằng Ngài và các môn đệ toan tính rời xa đám đông để nghỉ ngơi. Thế mà, đám
đông vẫn theo Ngài. Ngài chạnh lòng thương xót họ và tiếp tục thi ân cho họ.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết trở nên giống như Chúa luôn
sống bác ái yêu thương với mọi người. Xin đừng vì ích kỷ mà đóng cửa lòng với
những nhu cầu khổ đau của tha nhân. Xin đừng vì tham lam mà sống thiếu công lý
và tình thương làm hại người, hại đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền)
Thế giới mỗi ngày một
văn minh. Khoa học luôn tiến triển không ngừng. Văn minh hiện đại đã đáp ứng rất
nhiều nhu cầu sinh hoạt cho con người. Thế nhưng, cơn lốc của văn minh đã cuốn
hút con người chạy theo những đam mê hưởng thụ. Con người dường như đang trở
thành một cái máy không hồn. Ăn và làm đó là mục đích chính yếu của con người
văn minh hôm nay. Họ không còn giờ để bàn về việc có Thiên Chúa hay không. Họ
không còn giờ để nhận ra niềm vui, nỗi buồn của tha nhân. Họ không còn thời giờ
dành cho Chúa và cho nhau.
Mỗi lần có dịp trao đổi
với các bạn trẻ, tôi thường nghe họ nói: "Con rất ít cầu nguyện". Nguyên do đơn
giản là quá bận rộn với công việc. Ngoài thời giờ học hành, làm việc, mệt mỏi và
lăn ra ngủ thế là hết ngày, hết tháng, có khi hết cả năm vẫn không một lần đọc
kinh cầu nguyện. Thế giới văn minh đã đẩy con người vào cơn lốc của tiền bạc,
danh vọng và lạc thú. Dưới góc cạnh của luân lý, đây là hiểm hoạ đang đe doạ con
người. Văn minh là điều tốt. Giải thoát con người khỏi lầm than, lạc hậu. Nhưng
nếu văn minh khoa học chỉ nhắm phát triển thể xác mà không hướng con người đến
sự sống siêu nhiên, sẽ giới hạn con người thuần túy là loài vật, sẽ dấn đến huỷ
diệt con người thay cho phát triển và hoàn thiện. Con người có hồn - có xác. Con
người có tương quan với Đấng tạo hoá và với tha nhân. Nếu quá chú trọng đến nhu
cầu thể xác mà quên đi đời sống tâm linh, con ngươi đã tự vong thân. Chỉ là
những thây ma không hồn, gieo tai hoạ và khổ đau cho nhau. Con người sẽ đối xử
tàn bạo với nhau nếu con người chỉ coi mình thuần túy là loài vật mà chối bỏ
niềm tin vào Trời, vào Thiên Chúa, vào Đấng tạo thành. Không còn cảm nhận sự nhỏ
bé trước Đấng Tạo Thành, con người sẽ mất đi sự khiêm tốn để sống gần gũi và hòa
hợp với mọi người.
Cha ông ta vẫn nói: Có
tài mà không có đức chỉ là tai hoạ cho gia đình và xã hội. Cái đức có là do tin
vào có đời sau. Tin vào sự thưởng phạt của Đấng Tạo hóa. Người ta sống có đức vì
trời có mắt. Người ta ăn ở ngay lành vì để đời sau được bình an hạnh phúc. Thế
nên, là người thì tài đức cần phát triển song hành và hỗ trợ với nhau. Thế giới
đã qúa đau khổ bởi những người có tài mà phi nhân bất nghĩa như: Hitler,
Ponpót... Họ tìm vinh quang cho bản thân của mình đến nỗi sẵn sàng huỷ diệt cả
hàng triệu sinh linh. Thế giới đã quá sợ hãi bởi những cuộc chạy đua kinh tế,
khai thác dầu mỏ và vàng bạc đá qúy chỉ dẫn đến chiến tranh, bạo động và cướp
phá lẫn nhau.
Chúa Giêsu đã rất khôn
ngoan và tỉnh táo. Ngài không để các môn đệ quá say sưa trong công việc, và ngủ
say trong chiến thắng. Sau một thời gian hoạt động tông đồ miệt mài và đạt nhiều
thành quả tốt đẹp. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ trở về với chính mình. Nhận
biết mình thật nhỏ bé. Chỉ là dụng cụ được Thiên Chúa sử dụng vào công việc của
Ngài. Cần phải hướng lòng lên Chúa để tạ ơn về thành quả đạt được và cầu nguyện
để tìm hiểu thánh ý Chúa. Chính Chúa Giêsu vẫn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện
riêng với Chúa Cha. Chính Ngài đã nhiều lần tạ ơn Chúa Cha vì những gì đang diễn
ra trong cuộc đời của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã từng một lòng cương quyết vâng
theo thánh ý Chúa Cha, quyết một lòng đi theo con đường Chúa Cha đã định. Chúa
Giêsu đã sống phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Sứ mệnh của Ngài là giới
thiệu về Thiên Chúa cho con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa. Như
vậy, việc tôn vinh Chúa Cha cũng gắn liền với việc phục vụ tha nhân. Nếu chỉ chú
trọng việc phục vụ tha nhân mà xa rời Thiên Chúa con người sẽ đánh mất căn tính
của mình. Nếu chỉ quy hướng cuộc đời mình về Thiên Chúa mà dửng dưng hay làm ngơ
trước sự khốn cùng của đồng loại, cuộc sống trần gian sẽ không còn ý nghĩa.
Chính vì lẽ đó, dù rằng sau những giờ làm việc mệt mỏi, Chúa Giêsu cùng các môn
đệ muốn tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện, nhưng đoàn dân lại khao
khát tìm đến Chúa để được no thỏa vật chất và tinh thần, Chúa Giêsu đã động lòng
trắc ẩn. Ngài không lỡ từ chối hay chạy trốn đám đông. Ngài tiếp tục giang rộng
đôi tay để thi ân và đón nhận tha nhân.
Ngày nay vẫn còn đó
biết bao cảnh đời tha phương cầu thực đang cần một chút tình thương của chúng
ta, nhưng liệu rằng chúng ta có sẵn lòng mở rộng đôi tay để trao ban và đón nhận
hay chúng ta lại ngoảnh mặt làm ngơ, và tìm cách thoái thác để tiếp tục với công
việc của mình mà quên đi đồng loại? Phải chăng chúng ta đang mải dệt đời mình
trong danh lợi thú mà quên đi bổn phận với Đấng Tối Cao?
Lời Chúa hôm nay mời
gọi chúng ta hãy dành một chút thời giờ để nhìn lại mục đích đời người là gì?
Người ta sống ở đời này để làm gì? Nếu không xác định được hướng đi của đời
người thì cuộc sống của chúng ta chỉ tựa như con thiêu thân đang hủy hoại đời
mình trong ánh hào quang của danh vọng trần gian.
Ước gì mỗi người chúng ta đang khi vất vả lo lắng cho những nhu
cầu đời sống hằng ngày, cũng biết tìm vinh danh Chúa trong cuộc sống phục vụ tha
nhân. Ước gì mỗi ngừơi chúng ta cũng tìm được lẽ sống của đời mình, để có thể
dâng lên Chúa lời cầu nguyện như thánh Phanxicô thành Assisi: "Lạy Chúa từ nhân,
xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người... Vì chính lúc hiến
thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Amen.
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em
của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý
nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang
chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam
Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm
được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.
Ông Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi
bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân."
Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ
biết gầm gừ như chó. Và cũng vì chưa có tên nên báo chí gọi em là Bé Chó.
(nguồn: Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)
Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu
hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan...
nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng tính tình và cách
sống của em lại thuộc loài chó.
Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ dùng lương
thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con
vật.
Để trở thành người,
chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời
khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giêsu. (Mt 4,4)
Khao khát lương thực
tinh thần
Tin Mừng hôm nay cho
thấy đám đông dân Do-Thái nô nức tìm đến với Chúa Giêsu, không phải để tìm lương
thực vật chất mà là tìm kiếm những lời dạy khôn ngoan.
Vì thấy các môn đệ mệt
nhoài sau hành trình rao giảng, Chúa Giêsu sai các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi
cho lại sức.
Các môn đệ vừa xuống
thuyền ra đi thì đám đông dân chúng đoán biết địa điểm mà các ngài sẽ đến nên từ
các thành, họ kéo nhau đi vòng quanh bờ hồ, tuôn đến nơi ấy trước Chúa Giêsu và
các môn đệ.
Khi Chúa Giêsu lên bờ
thì thấy dân chúng đã tụ họp đông đảo đang khao khát đón nhận những lời khôn
ngoan của Người. Chúa cảm thương họ vì họ như đàn chiên đói khát bơ vơ không
người chăn và Người đã trao ban lời khôn ngoan cho họ.
Thiên Chúa ban cho con
người cơm bánh để nuôi phần xác nhưng điều quan trọng hơn là Người ban lương
thực tinh thần để bồi bổ tâm linh họ.
Chúng ta vô cùng diễm
phúc khi được sống bên Chúa Giêsu là hiện thân của Sự Khôn Ngoan, được đón nhận
Kinh Thánh là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Vì thế, nếu không biết
khai thác kho tàng khôn ngoan nầy thì thật vô cùng uổng phí.
Người Ả-rập Xê-út trước
đây mang phận nghèo truyền kiếp. Tổ tiên họ sở hữu một kho tàng vô cùng phong
phú nằm ngay dưới chân mình. Đó là một kho dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần
tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng
đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.
Từ năm 1938, nhờ việc
phát hiện và khai thác kho "vàng trắng" vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước
xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có
bậc nhất.
Như người Ả-rập xưa,
chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó
là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giêsu, hiện
thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta
không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là
những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con luôn nhớ rằng thân xác của
chúng con mai đây sẽ hư nát và chỉ còn là tro bụi, nên chỉ cần chăm sóc vừa
phải, còn linh hồn chúng con sẽ tồn tại vĩnh viễn nên đáng được nuôi dưỡng chu
đáo hơn. Amen.
Như chúng ta đã biết
dân Do Thái, một phần sống bằng nghề chăn nuôi, nên hình ảnh mục tử, người chăn
dắt đoàn chiên, là một hình ảnh thật quen thuộc và gần gũi. Đavít ngày xưa, khi
còn là một em bé chăn chiên, đã được Samuel xức dầu đặt làm vua. Sau này, trên
ngai vàng, Đavít đã hướng dẫn dân Chúa tới một thời đại hoàng kim. Các ngôn sứ
đã dùng hình ảnh mục tử, không phải để chỉ các vua mà còn ám chỉ chính Thiên
Chúa, Ngài sẽ đích thân chăn dắt dân Ngài.
Lời tiên báo của các
tiên tri đã được Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Ngài, bởi vì Ngài
chính là vị mục tử nhân lành. Thái độ nhân lành ấy đã được biểu lộ qua việc ân
cần chăm sóc mà đoạn Tin Mừng ngắn ngủi sáng nay đã ghi lại.
Trước hết là đối với
các môn đệ đang mệt mỏi vì những cuộc hành trình truyền bá Phúc Âm, Ngài đã
khuyên các ông hãy tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút. Tiếp đến là đối với
đám đông đang đói lời giảng dạy cũng như đang khát sự dẫn dắt, Phúc Âm đã ghi
lại: Nhìn thấy họ, Chúa Giêsu đã động lòng thương xót và Ngài đã làm phép lạ để
họ được ăn no giữa chốn hoang vắng. Không một trang Phuc Âm nào, mà chúng ta
không thấy được những hành động bác ái yêu thương Chúa Giêsu đã thực hiện, nào
là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết được sống lại, tất cả những hành động này
chỉ nhằm một mục đích duy nhất là xoa dịu mọi nỗi đớn đau của con người. Hơn thế
nữa, Ngài còn dành một tình cảm đặc biệt cho những kẻ tội lỗi. Ngài đối xứ với
họ như mục tử đối xử với những con chiên lạc. Ngài đã lên đường tìm kiếm họ, và
nhất là Ngài đã tha thứ cho họ. Cái ước vọng duy nhất của Ngài, đó là cuối cùng
chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Cũng trong ước vọng duy nhất này mà
Ngài đã chấp nhận chịu chết để đoàn chiên, là tất cả chúng ta được sống.
Từ hình ảnh người mục
tử chúng ta phải làm gì? Dĩ nhiên chúng ta chưa phải là những mục tử của Chúa,
nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể tham dự chúc vụ mục tử này nhờ bí tích Rửa
Tội, hay nói một cách khác, cái tinh thần mục tử chính là cái tinh thần mà mỗi
người chúng ta phải sống, phải thực hiện trong cuộc đời của mình. Vậy tinh thần
mục tử là gì?
Xin thưa đó là
tinh thần phục vụ. Đúng thế, người làm vua hay người làm mục tử theo
tinh thần của Chúa, không phải là để cai trị dân hay đánh đập những con chiên
của mình, nhưng là để an ủi khích lệ, giúp đỡ và phục vụ họ như lời Ngài đã
phán: Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ phục vụ cho mọi người. Chính Ngài
cũng đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ,
nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho mọi người.
Từ đó chúng ta đi đến
một kết luận đó là: Sống tinh thần mục tử đó là sống tinh thần phục vụ, dấn thân
để giúp đỡ anh em theo mẫu gương của Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Gioan
Nguyễn Văn Ty SDB)
Tông đồ Gioan đã cho ta
một định nghĩa rất tuyệt vời về Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu”, rồi sau đó
ông cố gắng giải thích cho ta hiểu tình yêu đó là như thế nào (1 Ga 4:7-11). Đức
Giêsu cũng giảng giải cặn kẽ cho ông Ni-cô-đê-mô biết về thứ tình yêu ấy: “Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3:16-18). Các lời giải thích trên
thật siêu việt và đầy tính thuyết phục ngay cả đối với một bậc ráp-bi trong dân,
tuy nhiên tình yêu không phải là điều gì thuần tư duy; tình yêu thuộc lãnh vực
cảm nghiệm và biểu lộ nhiều hơn. Biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa
chính là cái chết thập giá của Đức Giêsu, do đó cảm nghiệm của ta chỉ trở nên
sâu sắc khi vào sâu trong cái chết tự hiến của Người. Thế nhưng tình yêu, ngoài
biểu lộ đỉnh điểm và mãnh liệt trên Thập Giá, vẫn còn có thể biểu lộ bằng nhiều
cách khác, bình dị hơn nhưng không kém phần sâu sắc mặn mà. Tác giả Mác-cô, qua
đoạn văn Tin Mừng ngắn gọn và giản dị hôm nay, muốn chúng ta chạm được tới thứ
tình yêu rất nhân bản đầy tình người đó.
Các tông đồ mệt nhọc
sau chuyến đi truyền giáo trở về, hẳn sẽ nghiệm thấy một tình cảm nồng ấm như
thế nào khi nghe Thầy Giêsu ân cần: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi
thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Các ông có lẽ đã không ngờ những lời đậm đà
như thế lại được thốt ra từ môi miệng một bậc thầy được thiên hạ kính nể với
những lời giảng dạy cao siêu đầy uy lực, ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của
Người, vì Người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư’
(Mc 1:22). Các ông càng không thể ngờ được rằng, nếu Thầy Giêsu là hiện thân của
Thiên Chúa, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể gần gũi và ân cần chăm sóc tới
từng chi tiết của cuộc sống đời thường của con người đến thế?
Cựu Ước đã nhiều lần
cho thấy Đức Chúa Gia-vê chăm sóc dân riêng tới từng chi tiết cuộc sống; trong
thời xuất hành, Ngài hàng ngày chu cấp cho họ Man-na, thịt chim trời và nước
uống trong mát (Xh 16:17), cho mây che ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm
(Xh 13:21). Tuy nhiên đó vẫn là một Đức Chúa quyền uy cao vời, và dân Híp-ri
phải luôn kính phục. Thế cho nên cái cảm nghiệm về một Thiên Chúa sống giữa loài
người đầy ắp yêu thương thì chưa ai từng đã có bao giờ. Là các thủ lãnh tương
lai của Giáo Hội, chắc chắn các tông đồ cần phải biết tới cảm nghiệm này: và mọi
phần tử của Hội Thánh qua các thời đại cũng cần phải có nữa. Riêng các Ki-tô
hữu, không trừ một ai, trong một mức độ nào đó, cũng cần nghiệm thấy như thế
trong cuộc sống hàng ngày của mình, nhất là khi họ mở miệng tuyên xưng mầu nhiệm
nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên giống con người mọi đàng, và cư ngụ giữa chúng
ta (xem Pl 2:6-8). Lúc đó, phải, chỉ lúc đó, thực tế này không còn chỉ là một
suy tư thần học, một mầu nhiệm cao vời, mà phải trở thành một kinh nghiệm sống
ngọt ngào thường ngày.
‘Ra khỏi thuyền,
Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên
không người chăn dắt’.
Cựu Ước hầu như muốn
dành sự chăm sóc của Đức Chúa Gia-vê cho riêng dân Do Thái của Ngài mà thôi. Các
tiên tri sau này chỉ dám ám chỉ xa xa rằng Thiên Chúa cũng quan tâm tới các dân
tộc khác và muốn qui tụ họ (xem Is 2:2). Phần các môn đệ, sau cảm nghiệm riêng
tư thân mật, các ông đã được dẫn tới một trải nghiệm khác: sự quan tâm nhân ái
của Thầy Giêsu mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là những ai bơ vơ vất vưởng.
Chuyến đi truyền giáo cho các ông cái kinh nghiệm đầu tay về việc thiết lập một
dân riêng mới, nhưng dân này sẽ không hề có tính biệt loại (exclusive). Vừa cảm
thấy được Thầy Giêsu ân cần chăm sóc, các ông liền được cho biết, cõi lòng từ
nhân của Người mở rộng cho hết mọi hạng người, nhất là cho các kẻ tội lỗi lầm
lạc. Sau này rất nhiều lần khác nữa, Người không ngừng khảng định điều này…, và
đây mới chính là đặc điểm không thể nhầm lẫn của đoàn dân mới là Hội Thánh (xem
Mc 9:38-40; Lc 9:49-55). Như Phao-lô đã từng khảng định, mọi Ki-tô hữu cần nhận
thức điều này: phe phái, biệt loại dưới bất kì hình thức nào, đều đi ngược lại
với cõi lòng từ nhân của Đức Ki-tô, vì Người tới để phá bỏ mọi bức tường ngăn
cách (xem Gl 3:27-28).
Tôi có thể đi tới kết
luận cho chính bản thân mình rằng: càng có được cảm nghiệm riêng tư về lòng nhân
ái Chúa, do được ưu ái chăm sóc cách đặc biệt (như khi nhận được ơn gọi Ki-tô
hữu, tu sĩ SDB, linh mục…hay gặt hái được thành công…, vượt qua được thử
thách…), tôi càng phải biết mở rộng cõi lòng hơn để vượt thắng mọi hình thức
phân rẽ: lương - giáo; triều - dòng; tu - đời, đạo đức - khô khan; tốt - xấu..,
để trên hết, lòng từ bi thương xót Chúa phải bao trùm trên tất cả trong tôi. Nếu
cõi lòng tôi chưa được như thế, thì có nghĩa là cảm nghiệm về lòng thương xót
Chúa nơi tôi chưa thật sự chân thành và sâu sắc.
Lạy Thầy Giêsu từ bi và nhân hậu, xin đừng để con run sợ trước
các cảm nghiệm về sự uy nghi cao cả của Thiên Chúa, hay sự cao siêu bóng bảy
trong các học thuyết Người loan truyền. Lòng con khao khát hơn một cảm nghiệm
nồng ấm vì thấy mình được chăm sóc mến thương, nhất là được xót thương tha thứ.
Xin cho con có được mỗi ngày vài giây phút gần gũi thân mật trong tâm tình và
cảm nghiệm: mình được Chúa yêu thương chăm sóc. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Khi từ thuyền bước lên
bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì Ngài động lòng thương vì họ như chiên
không người chăn dắt, và Ngài đã dạy dỗ họ. Dân chúng mong chờ khao khát điều mà
họ thiếu, nay gặp Đức Giêsu và các môn đồ, họ như thể tìm được điều họ mong ước,
nên họ tuôn đến với Đức Giêsu. Thiên Chúa cần những con người cụ thể để chăn dắt
dân Ngài.
I. Ta sẽ đem chúng trở
lại đồng cỏ
Tiên tri Giêrêmia sống
vào thời trước và trong khi dân Do Thái bị lưu đầy. Trước thời lưu đày, dân Do
Thái có tất cả những cơ cấu cần thiết, gồm những người có quyền đại diện Thiên
Chúa mà cai quản, dạy dỗ dân chúng: vua, tư tế và tiên tri. Hai tiên tri lớn
thời này là Giêrêmia và Edêkiel. Tuy nhiên, những người lãnh đạo thời đó là vua
quan và tư tế thì lại đi tìm lợi ích và thỏa mãn riêng của họ; nên dân chúng
chán nản không còn có thể tin vào những người lãnh đạo được nữa, và họ bị lạc
lối và tán loạn.
Thiên Chúa đã nói qua
tiên tri Giêrêmia: “khốn cho các mục tử đã để đàn chiên của Ta bị tan hoang và
phân tán…; tuy nhiên Ta sẽ quy tụ chúng từ những nước Ta đã phân tán chúng; Ta
sẽ mang chúng trở lại đồng cỏ”. Vì những lỗi lầm của những người lãnh đạo chăn
dắt, dân chúng đã phải phân tán lưu đày; nhưng chính Thiên Chúa sẽ là Đấng quy
tụ và đem dân trở về. Thiên Chúa sẽ đem con người trở về với Thiên Chúa cho dù
con người hiện tại có bị lạc xa đường lối của Thiên Chúa.
“Ta sẽ làm chỗi dậy một
nhành cho David, và vị này sẽ chăn dắt dân như một vị minh vương”. Thiên Chúa
vẫn tiếp tục chăn dắt con người qua những trung gian của Ngài. Ngài sẽ cho chỗi
dậy những con người như lòng Ngài mong ước để chăn dắt dân của Ngài. Khi Thiên
Chúa tạo dựng con người như hiện tại, là Ngài đã muốn dùng cơ cấu vật chất- tinh
thần, trung gian hữu hình để ở với và nói với con người của mọi thời đại.
II. Đức Giêsu động lòng
thương dân như chiên không người chăn
Sau hơn ba mươi năm
tháng dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã rong ruổi khắp đất nước Do Thái để rao giảng.
Ngài thu nhận môn đệ, và giữa các môn đệ Ngài tuyển chọn nhóm 12, để chuẩn bị
cho sứ vụ rao giảng sau này. Tin Mừng Mác-cô cho thấy Ngài đã sai các tông đồ đi
rao giảng, và các ông đã trở về với bao kết quả đáng mừng. Dân chúng đổ xô đến
cùng các ngài, đến độ các ngài không còn thời gian để ăn và nghỉ ngơi hầu lấy
lại sức khỏe cần thiết.
Đức Giêsu khuyên các
tông đồ hãy tìm chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. Ở đây một lần nữa người ta thấy Đức
Giêsu cũng tôn trọng nhịp sống của con người: làm việc và nghỉ ngơi, kể cả đối
với những công việc quan trọng như việc tông đồ. Dường như nhu cầu tông đồ không
bao giờ cạn; người được sai phải làm bổn phận của mình, nhưng cũng cần phải có
thời gian để yên lặng, để sống với Thiên Chúa cho chính mình, để thân xác hồi
lại sức lực. Tôn trọng cơ cấu con người, cũng là tôn trọng Thiên Chúa.
“Khi Đức Giêsu ra khỏi
thuyền và lên bờ, Ngài thấy dân chúng đông đảo nên động lòng thương vì họ như
chiên không người chăn, và Ngài giảng dạy họ nhiều điều”. Đức Giêsu vẫn để các
tông đồ có thời gian nghỉ, và lúc này chính Ngài dạy dỗ dân chúng. Đức Giêsu,
hơn ai hết, Ngài nhận ra nhu cầu của dân chúng, của con người cụ thể. Ngài biết
điều gì là thực sự cần thiết cho con người, Ngài đã làm và huấn luyện các tông
đồ để họ tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian.
III. Con người hôm nay
như dấu chỉ thời đại
Khi những người lãnh
đạo dân không sống đúng với ơn gọi của họ, dân chúng bị phân tán vì họ không tìm
thấy nơi những vị đó điều họ mong ước hy vọng. Con người luôn cần những người
lãnh đạo tinh thần. Và ngược lại, nếu dân chúng phân tán như một sự kiện, thì
những người lãnh đạo tinh thần cũng cần xét lại xem họ có đáp ứng nhu cầu thực
sự của con người thời đại không.
Ngày nay, ở châu âu và
ngay cả ở Mỹ, người ta ít đến nhà thờ; những người trẻ không tìm thấy ý nghĩa
nơi nhà thờ. Nhà thờ ở Ý và nhiều nước ở châu âu trở thành “bảo tàng viện”, nơi
các du khách tìm đến để xem những kiến trúc xa xưa, những hình ảnh phản ánh văn
hóa một thời đại. Phụng vụ ở nhiều nơi chỉ gồm những nghi thức nhưng nội dung
giảng dạy thì không được chú ý; cả một số nơi người ta cố gắng đổi hình thức
nhưng lại không cố gắng để có nội dung sâu xa, và như vậy không cuốn hút được
người trẻ, vì họ không tìm thấy nơi đó của ăn sức sống tinh thần, hay điều họ
thâm sâu mong ước.
Những mục tử chân chính
phải xét lại cách rao giảng của mình, xem mình và Giáo Hội có đáp ứng nhu cầu
của con người ngày nay, đặc biệt là các người trẻ hôm nay không, hơn là chỉ nói:
con người ngày nay không muốn đến nhà thờ nữa, hoặc con người ngày nay không còn
có tinh thần đạo đức nữa. Làm sao có thể đòi họ đến nhà thờ khi họ không thấy ý
nghĩa, khi họ không tìm thấy nơi đó có sức sống hay của ăn nuôi dưỡng họ và làm
cho họ lên tinh thần. Thiển nghĩ, con người của mọi thời đại đều tốt, và cũng
đang được Thánh Thần hướng dẫn và thúc đẩy. Người mục tử chân chính ngày nay
phải làm sao để giúp con người hiện tại gặp gỡ Thiên Chúa, điều mà con người của
mọi thời đại đều mong ước. Có lẽ Giáo Hội cũng phải xét lại cách huấn luyện
những mục tử tương lai, sao cho những người này có thể nghe được và nhận ra lời
mời gọi của Thiên Chúa qua con người ngày nay, qua thao thức và khát vọng của
họ. Làm sao phụng vụ, những bài giảng, phải là lương thực nuôi dưỡng con người
ngày nay. Nếu những người trẻ ngày nay không muốn tới nhà thờ, thì đâu là điều
người trẻ hôm nay mong ước mà Giáo Hội cần khám phá và đáp ứng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, con người
ngày nay mong ước gì một cách sâu xa nhất?
2. Theo bạn, Giáo Hội
Công Giáo ngày nay đáp ứng được đến mức nào mong ước của con người hiện đại? Tại
sao bạn nghĩ vậy?
Trong cuộc sống đời
thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao lo toan và công việc bề bộn, con
người chúng ta ai cũng cần có những phút giây thư giãn để nghỉ ngơi. Quy luật
bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho các học trò của mình. Sau khi các
tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với
các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi
chút”. Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh dưỡng về thân xác, nhưng
trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn. Giữa những ồn ào náo nhiệt và bon
chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế giới nội tâm để gặp gỡ
Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình. Thái độ tĩnh lặng và nghỉ ngơi đó
chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta hôm nay.
Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ
trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được
mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ
để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói
cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa
Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?”. Cụ già chất phác và chân
chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả. Con nhìn Chúa,
Chúa nhìn con, thế thôi”. Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không phải bằng ngôn
ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim.
Bắt chước cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong
thinh lặng nội tâm của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ
tuyệt vời nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.
Chính Đức Giêsu cũng
nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu nguyện. Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng
Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước
khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu
nguyện. Sau những lam lũ với công việc bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào
trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với Chúa Cha. Đặc biệt trước biến cố thập
giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào
vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp thân tình với Chúa Cha.
Nhìn vào lịch sử cứu độ
thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như
vậy. Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều
Chúa gởi trao cho ông. Moise cũng đến sa mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa
trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Do Thái cũng
phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa.
Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người.
Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được
Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ. Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc
sống, chúng ta phải dành ra những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của
lòng mình. Trong tĩnh lặng thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa
nói, và cũng trong sự kết hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để
tiếp tục dấn bước trên con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.
Bác học Ampère đã nói:
“ Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện”. Cầu
nguyện là gắn kết thân tình với Chúa. Mỗi người chúng ta là một hữu thể đầy giới
hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện. Chúng
ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng
Tạo Hóa mạnh mẽ vô song. Chúng ta trở nên vĩ đại nhờ thế. Lời căn dặn Chúa Giêsu
ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là lời khuyến mời Chúa nói với chúng ta
hôm nay “ Anh em hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Có một thương gia giàu
có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta
sống an bình. Vị ẩn sĩ đó trả lời “ Như con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi
cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế gian, giữa những tranh giành, lọc lừa
và gian dối. Con cá muốn sống phải trở về với sông với nước, ngươi muốn bình an
phải trở về với sự cô tịch”. Anh thương gia hỏi lại “ Thưa Thầy, làm sao con có
thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây sống ẩn dật như thầy được?” Vị ẩn sĩ nói
tiếp: “ Không phải thế, con cứ tiếp tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng
ngày của con, nhưng điều quan trọng nhất là con phải luôn biết trở về trong sự
tĩnh lặng của cõi lòng ”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi
các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó là giây phút Thầy trò
gần gũi bên nhau, ôn lại những biến cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành
trình tông đồ tương lai. Sức bật mới này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua
việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình với Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói “ Không có
thầy, anh em không làm được gì.”
Việc cầu nguyện cần
thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt đối với các vị mục tử trong Giáo Hội
nói riêng. Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi
vì các Ngài là những mục tử, là những cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu
thế. Trong trình thuật Tin mừng, Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể
hiện một trái tim yêu thương. Ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy
chiên không người chăn dắt. Các vị mục tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại
cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã
huấn luyện các học trò thân yêu. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay,
ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa sẽ ban cho các mục tử tốt để họ
chăn dắt đoàn chiên. Vị tiên tri cũng lên án gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã
làm đàn chiên thất lạc và tan tác. Họ đã xua đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên. Vị
Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức Kitô, người chăn chiên nhân lành,
đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như các vị mục tử trong Giáo Hội hôm
nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu.
Để thực hiện sứ vụ này,
chúng ta hãy nhìn vào bài học của các tông đồ hôm nay. Chúa mời gọi các ông rút
lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Chúa cũng nhắn gửi các ông phải
tránh những nơi ồn ào để có một tâm hồn tĩnh lặng và an bình. Biết bao ồn ào náo
nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý
hướng tốt nhằm phục vụ các linh hồn. Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng
ta thích được mọi người vỗ tay khen ngợi. Đó là những ồn ào của tiền bạc, của
những cuốn hút trước một lối sống tục hóa. Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện
một tình yêu mục tử tinh ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn
được tĩnh lặng và để được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.
Những vị mục tử ngày
hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức Giêsu, những con người được Chúa tin
tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần phải học cho mình những bài học căn bản
này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh thơi và an bình.
Sự bình an chân thật
chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên
Chúa. Đức Giêsu chính là sự bình an của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói cho chúng
ta chân lý này trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay: “ Người đã đến loan
Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở
gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc
sống, chúng ta năng rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không phải là
sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống
kết hiệp với Chúa luôn mãi.”
Khi chế tạo sản phẩm
mới người ta quảng cáo đủ mọi điều tốt đẹp về sản phẩm. Nào là nó tiện lợi, đẹp,
rẻ và tiện nghi cho đời sống mới. Một thời gian sau sản phẩm khác ra đời thay
thế sản phẩm cũ, thế là có mới nới cũ. Cũ chìm vào quá khứ biến mất khỏi thị
trường. Như thế người tiêu dùng bị hấp lực bởi quảng cáo, không phải hấp lực của
sản phẩm. Đồng ý là khoa học kỹ thuật mang lại rất nhiều lợi ích thiết thực cho
con người nhưng không phải mọi sáng chế đều thuận lợi cả đâu. Nhiều người trở
thành nạn nhân của những sáng chế mới. Điều mà không ai tránh khỏi đó là vấn đề
chạy đua với thời gian. Từ già trẻ, lớn bé, mọi người đều cảm thấy ngày ngắn,
đêm đoản, ngủ chưa no giấc ngày đã đến, còn đang lai rai đêm đã tàn. Máy móc làm
việc nhanh gấp ngàn lần chân tay đáng ra con người phải có nhiều giờ rảnh mới
đúng nhưng dường như ai cũng bận rộn, không đủ giờ để nghỉ, thiếu giờ liên lạc,
đàm thoại với nhau. Vì sao? Vì phải chạy đua với máy móc. Sức người có hạn, máy
móc lại dai dẳng, không mệt nên người mệt mỏi trước máy. Tai hại thứ hai của sản
phẩm khoa học kĩ thuật là vấn đề gian lận. Trẻ gian lận giờ học, giờ chơi, giờ
ngủ để có giờ cho máy móc. Cảnh sát vất vả vì kẻ lạm dụng kiến thức khoa học
đánh cắp đủ thứ. Hầu như ai cũng được khuyên cần mã số cho máy, mã số cho sổ
ngân hàng, mã số cho mọi thứ liên quan đến cá nhân vì lúc nào cũng có kẻ rình mò
tìm cách lợi dụng. Phương diện quốc gia cũng không hơn gì, ngày đêm có kẻ rình
rập ăn cắp dữ kiện, phá nhau để họ khỏi hơn mình. Chiến tranh trên mạng chỉ mới
bắt đầu và sẽ trở thành đại nạn trong những năm sắp tới.
Đức Kitô sai các tông
đồ đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho tha nhân, các ông cũng cảm
thấy bận rộn đến độ các ông không có giờ ăn trưa. Đức Kitô nói với các ông: anh
em hãy đi tìm nơi thánh vắng nghỉ lấy sức c.13
Lời khuyên vừa khôn
ngoan vừa thiết thực, nên nghỉ ngơi sau ngày làm việc vất vả đến từ Đức Kitô.
Nơi thanh vắng không mang nghĩa là nơi cô đơn, một mình, không có ai hoặc là
không làm gì hết nhưng là nghỉ trong Chúa. Nơi thanh vắng cho ta thời giờ rảnh
rang để nhìn lại, kiểm điểm công việc đã qua. Trường hợp các tông đồ các ông đi
chung với nhau, với những người chung niềm tin, tôn thờ cùng Thiên Chúa và làm
cùng công việc rao giảng về nước trời.Nơi thanh vắng là nơi thể xác được nghỉ
ngơi, tịnh dưỡng, tinh thần được bồi bổ và tâm linh được tăng sức mạnh. Nơi
thanh vắng là nơi cuộc sống không bị dày vò, công việc không thúc bách và không
phải chạy đua với thời gian. Nơi thanh vắng chúng ta tìm được bình an trong tâm
hồn, yên tĩnh của cuộc sống và những điều này đánh tan nỗi lo nhọc của cuộc
sống. Nơi thanh vắng là nơi chúng ta cởi mở tâm hồn tâm sự cùng Chúa. Nếu là
những niềm vui chúng ta chia sẻ Thiên Chúa sẽ làm cho nguồn vui tăng gấp bội.
Nếu là nhưng lo âu, sầu khổ, mệt mỏi chúng ta san sẻ nỗi âu lo đó cho Chúa và
Chúa sẽ ban sức mạnh, chữa lành.
Tình yêu Chúa bất biến
với thời gian. Tình yêu Chúa không bao giờ thay đổi nhưng cách làm chứng nhân
cho Thiên Chúa cần đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh. Thay đổi thế nào thì tuỳ
vào sự khôn ngoan của mỗi cá nhân lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Chúa trong
lúc nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
Nghỉ ngơi, bồi bổ,
dưỡng sức là nhu cầu bắt buộc phải có trong cuộc sống. Thiếu nghỉ ngơi, bồi bổ
và dưỡng sức sự sống bị hao mòn trước khi tắt ngủm.
Hay nóng giận, nổi quạo
một cách vô cớ, phê bình, chỉ trích không lý do, là dấu hiệu báo động cho biết
người đó đang bị căng thẳng. Căng thẳng gây nên bởi hai lý do chính. Một đến từ
trong con người. Hai đến từ bên ngoài. Dù đến từ trong hay ngoài đều nguy hiểm
cho cuộc sống. Căng thẳng xảy ra vì thiếu niềm tin vào Chúa.
Lý do trong ta
Tiền tài, tham vọng,
tài sức riêng, và tính kiêu ngạo là lý do nội tại tạo nên mối căng thẳng cho
mình và cho người khác.
Lý do ngoài ta
Xã hội sa đoạ, luân lí
suy đồi vì gạt Chúa ra ngoài. Gia đình sào sáo, tranh quyền. Chúa đóng vai phụ
trong cuộc sống. Môi trường thích hợp cho căng thẳng phát triển. Bao lâu người
ta còn chối tình yêu Chúa, bấy lâu thân xác họ còn là những hầm mỏ chứa căng
thẳng, tị hiềm, ghen ghét. Thể xác phải gánh chịu những đớn đau, dằn vặt đó.
Để tiêu diệt thù trong,
giặc ngoài, nghi kị, hằn thù. Để tâm hồn tìm lại bình an, thể xác thảnh thơi,
thoải mái, tình người đề cao, nhân phẩm coi trọng.
Sống tình Chúa yêu ta là điều không thể thiếu.
Thiếu yêu thương
Căng thẳng phát sinh
không phải do công việc nặng nhọc. Nó bộc phát bởi điều kiện bên ngoài tác hại
con người bên trong. Điều kiện bên ngoài do con người tác tạo. Xã hội có người
gây căng thẳng; lại có người chữa trị căng thẳng. Có người chữa vì lòng yêu mến.
Cũng có người lợi dụng làm giầu trên lo lắng, đau khổ của kẻ khác. Kết quả kẻ là
nạn nhân; kẻ là tác giả gây căng thẳng. Cũng có trường hợp tác giả cũng chính là
nạn nhân, thật đúng câu: gậy ông đập lưng ông. Sở dĩ có tình trạng tréo cẳng
ngỗng như thế vì người ta từ chối, không đón nhận tôn thờ một Thiên Chúa yêu
thương. Chối bỏ tình yêu Chúa con người không biết cách diễn tả tình yêu chân
chính. Tưởng hành xử như thế là yêu nhưng thực ra phản lại tình yêu. Chúa là
Đấng duy nhất dậy ta biết cách diễn tả tình yêu trọn hảo nhất. Ngoài cách Chúa
dậy, mọi cách khác đều không trọn hảo.
Các ý kiến mâu thuẫn
trong việc giải thích tình yêu. Ý nào cũng tự hào là đúng nhất. Điều gì bảo đảm
cách này đúng hơn cách kia? Thưa, sức mạnh đồng tiền và vũ khí. Giầu, mạnh hơn
đúng nhiều; nghèo, yếu hơn đúng ít. Tiền và vũ khí gieo oán hận, tang thương.
Nơi đâu có ân oán, tang thương; nơi đó vắng bóng tình yêu chân chính. Khi có
nhiều ý kiến nghịch nhau giải nghĩa chữ yêu thì cần phải chọn lựa.
Chúa là Đấng duy nhất
đủ thẩm quyền dậy về tình yêu. Chính Con một Chúa làm gương tình yêu cho nhân
loại soi. Mọi kêu gọi hy sinh trái với giới luật yêu thương của Chúa đều là
gương giả hiệu. Từ chối lời Ngài là chọn sống trong tình trạng không biết Chúa.
Không biết Chúa thì không biết yêu như Chúa yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Chúa
chết để cứu chuộc ta nên tình yêu Ngài ban tặng là tình yêu chân thật.
Ân tình Chúa
Đức Kitô đưa ra lời
khuyên cụ thể, xác thực. Lời khuyên đơn giản, cần thiết cho cuộc sống. Ngài biểu
lộ tình yêu bằng cách lo lắng cho hạnh phúc của con người.
Tình yêu Chúa biểu lộ
qua Tin Mừng.
Người rao giảng Tin
Mừng, khuyên các ông nghỉ cho lại sức c.32
Đại chúng khi Ngài thấy
họ bơ vơ nên chạnh lòng thương c.34
Nơi thanh vắng
Nơi thanh vắng là nơi
không có người. Dù vắng người nhưng người tới đó không cảm thấy lẻ loi, cô đơn.
Nơi thanh vắng là nơi Đức Kitô gặp Chúa Cha. Nơi thanh vắng Kitô hữu gặp
- Lại mình
- Tha nhân
- Gặp Chúa.
Đến nơi thanh vắng để
tâm hồn được thanh thản, thân xác bình an. Cách chữa bệnh bằng phương pháp tự
nhiên này rất công hiệu cho mọi người. Không cần phải thầy thuốc. Chỉ cần nơi
thanh vắng để nghỉ ngơi, bồi dưỡng. Nơi thanh vắng không cần phải xa xôi, hẻo
lánh. Nơi gần, tốt, an toàn và thanh vắng nhất chính là con tim mình. Nơi con
tim cảm thấy yên tâm, thoải mái. Không còn bồn chồn, giao động, toan tính mà là
yên tâm, bình an. Chính lúc thư giãn, yên tâm là lúc tâm hồn gặp được Chúa. Tâm
hồn được bồi dưỡng bằng sức mạnh thần thiêng. Sức mạnh thần thiêng có khả năng
tăng sức cho thân xác. Nơi thanh vắng là nơi cầu nguyện tốt.
Tâm hồn xao động không
có bình an. Bất an không thể phục vụ. Có yêu Chúa chỉ là yêu bằng môi mép. Chúa
không muốn điều đó.
Quân này yêu Ta bằng
môi, miệng còn lòng chúng thì xa Ta’. Mt 15, 8
Nơi thanh vắng giúp ta
nhìn lại bước đường đã qua. Kiểm lại bước chân lung lạc trên đường về quê trời.
Nơi thanh vắng giúp ta nhìn vào chính mình, học hỏi, xem lại cách sống, cách đối
xử với tha nhân và với Đức Kitô.
Xin giúp con xác tín ngoài Chúa ra không có tình yêu chân chính.
(Trích trong ‘Như Thầy
Đã Yêu’)
Một thanh niên lực lưỡng xin đốn cây để phụ giúp gia đình. Thấy
anh vạm vỡ, chủ liền trao cho anh một chiếc rìu, dẫn anh vào rừng và bảo:
- Anh thử đốn cây này cho tôi xem.
Vì đã từng lao động, nên anh đốn rất nhanh. Ông chủ nhận anh vào
làm việc, đưa ra mức lương và cho nơi cư ngụ.
Dù mệt nhọc nhưng anh cảm thấy rất vui, vì nghĩ rằng cuối tuần sẽ
có một số tiền kha khá đem về gia đình. Thứ Hai, Thứ Ba, rồi Thứ Tư vùn vụt trôi
qua. Đến ngày Thứ Năm, chủ gọi anh vào cám ơn và trao cho anh tiền công cả một
tuần.
Anh vui sướng cầm những tờ giấy bạc thấm đẫm mồ hôi, đôi mắt rạng
ngời niềm vui. Bỗng chợt nhận ra có điều gì bất thường, anh thắc mắc hỏi chủ:
- Tôi xin cám ơn chủ đã trả lương cho tôi suốt tuần. Nhưng sao
không để đến thứ bảy mà lại trả lương vào hôm nay.
- Đáng tiếc là tôi không thể mướn anh được nữa, vì theo sổ sách
thì anh đốn được nhiều cây nhất vào ngày thứ Hai, nhưng qua ngày thứ Ba cây đã
giảm xuống, và ngày thứ Tư anh là người đốn được ít cây nhất trong các công nhân
ở đây.
- Nhưng thưa ông chủ, tôi đã làm hết sức mình. Tôi đi làm sớm về
trễ. Tôi chỉ nghỉ để ăn trưa có nửa tiếng thay vì một tiếng. Tôi làm việc không
ngừng. Tôi làm việc cả giờ giải lao. Vậy ông chủ còn muốn gì nữa?
- Những gì anh vừa nói không sai chút nào, tôi hoan nghênh sự
nhiệt tình của anh. Nhưng tôi chỉ xin hỏi anh một câu: anh có mài rìu không?
***
"Các con hãy lui vào
nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút" (Mc.6,31). Sau cuộc hành trình truyền giáo
vất vả, các tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng
son của mình. Nhưng Người lại quan tâm đến con người hơn công việc. Người muốn
các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm
hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao mật thiết
với Thầy và với nhau.
Lắm khi chúng ta quên
mất "mài rìu", vì cho rằng khối lượng công việc chồng chất, vì thời buổi kinh tế
cạnh tranh, nên không dễ tìm được một chút tĩnh lặng: để thẩm định lại những
biến cố, và soát lại công việc đã làm và lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Nếu muốn đốn nhiều cây
càng phải năng "mài rìu" cho sắc.
Nếu muốn đi thật xa
càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi, lấy sức.
Nếu muốn hoạt động tông
đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Khi được hỏi bí quyết
nào khiến George Washigton Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình
với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời: "Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và
trong sự yên tĩnh của buổi sớm mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình của
Người xếp đặt cho tôi".
P. Doncocur đã quả
quyết: "Không một vĩ nhân nào đã thành công mà không đắm mình trong tĩnh lặng để
hồi tâm và cầu nguyện". Vâng, trong cuộc hành trình về quê Trời, người ta không
thể đi hết con đường vừa dài vừa dốc, nếu không dừng lại nghỉ ngơi, lấy sức và
định hướng.
****
Lạy Đức Giêsu, Chúa đã "lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện".
Xin cho chúng con cũng biết gác bỏ những sôi nổi của thành công, những ê chề của
thất bại, để một mình tĩnh lặng bên Chúa; lắng đọng và bình an.
Xin cho chúng con biết dừng lại, lắng nghe và kín múc nơi Chúa
nguồn sức mạnh, để chúng con lại tiếp tục lên đường. Amen.
(Suy niệm của Lm Nguyễn
Văn Phan, CSsR.)
Trong số những hình ảnh
Kitô giáo thời sơ khai vẽ trên những bức tường hang toại đạo ở Roma, người ta
thấy hình vẽ Đức Kitô dưới hình ảnh một người chăn chiên trẻ trung không để râu,
vai vác một con chiên. Chủ đề rất cổ xưa này trong nghệ thuật Kitô giáo thời sơ
khai được nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta chứng kiến Đức
Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông quần chúng như là những con chiên
không có người chăn.
Bối cảnh hôm ấy là khi
các tông đồ trở về từ chuyến đi truyền giáo đầu tiên. Các ông mệt mỏi và cần
nghỉ ngơi. Đức Chúa Giêsu biết thế, nên Người đưa các ông đến một nơi yên tĩnh
để các ông có thể nghĩ ngơi và cầu nguyện đôi chút. Nhưng mọi chuyện đã không
xẩy ra như ý. Đám đông đã xác định được nơi Thầy trò sẽ đến, nên họ đã kéo nhau
đến đó trước. Ắt hẳn một số môn đệ của Đức Chúa Giêsu nghĩ rằng Thầy mình nên
bảo họ trở về nhà, vì ngày hôm đó Người cũng đã làm việc nhiều rồi, nhưng Đức
Giêsu đã không quay lưng lại với hoàn cảnh. Tình cảnh dân chúng thật đáng thương
và Người đã ý thức đến nhu cầu của họ.
Chúng ta có thể rút ra
một bài học từ thái độ quảng đại của Đức Chúa Giêsu khi Người đặt nhu cầu của
tha nhân lên trên nhu cầu của chính mình. Nếu Đức Chúa Giêsu không giữ lại cho
chính mình, thì những người đi theo Chúa cũng thế thôi. Qua ơn gọi thanh tẩy,
tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm Kitô Hữu, đều có phần nào đó trong việc
chăn dắt những người Chúa trao cho chúng ta. Nhiều khi hình như chẳng ai để ý gì
đặc biệt trong đời sống gia đình. Nếu con cái đang tuổi lớn không được chăm lo
cẩn trọng và chỉ dẩn đúng hướng, chúng sẽ có nguy cơ lạc lối và lang thang vô
vọng suốt đời vì không có mục đích nào cả. Trở nên người chăn chiên lành như ý
Đức Kitô mong muốn thật là cả một chuỗi công việc vất vả khó khăn. Con đường
Người muốn chúng ta đi theo là một con đường thẳng và hẹp của Thập Giới. Nếu như
chúng ta không liên tục kết hợp với Đức Kitô trong lời cầu nguyện, chúng ta có
nguy cơ loanh quanh luẩn quẩn rồi lại tìm những con đường khác hấp dẫn hơn.
Tin Mừng hôm nay cũng
nói đến tầm quan trọng của việc tìm một nơi yên tĩnh trong cuộc sống nơi mà
chúng ta có thể một mình cầu nguyện với Đức Kitô. Giống như Đức Kitô, nhiều khi
chúng ta phải tìm cách thoát khỏi những tiếng gọi liên tục, khỏi những áp lực
luôn đè nặng, ngõ hầu chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa dịu êm chữa lành và
bồi dưỡng chúng ta về mặt thiêng liêng. Người ta có thể nghe thấy tiếng nói của
Thiên Chúa rõ nhất trong những giây phút lặng lẽ. Khi và chỉ khi nào Đức Kitô có
chỗ cư ngụ trong trái tim chúng ta, chúng ta mới được khai mở đón nhận sức mạnh
Thiên Chúa đến hỗ trợ đỡ nâng cuộc sống chúng ta.
Cầu nguyện một mình
trong thinh lặng với Thiên Chúa là một trong những nhu cầu quan trọng nhất của
chúng ta. Một mình đối diện với Ngài, chúng ta nên tự vấn mình sẽ đi đến đâu, sẽ
cố gắng làm gì để đạt tới chỗ đó. Nếu chúng ta không tạo ra những khoảng trống
dành cho Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ lãng phí thời gian và
không thấy gì ngoài những sinh hoạt hiện tại của mình thôi. Tất cả cuộc sống của
chúng ta đã được thánh hiến, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được điều này
nếu như chúng ta không trở nên môi miệng của Chúa; qua những nơi những người
chúng ta thăm viếng, chúng ta trở nên đôi chân của Chúa.
Đời sống cần có Chúa:
"Họ như bầy chiên không có kẻ chăn"
Sau Tiên tri Amos, xuất
thân từ một người chăn chiên hiền lành biến thành một con sư tử “gầm thét” tội
ác của các nhà lãnh đạo dân Chúa, nay đến Tiên tri Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho
các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn chiên”.
Họ đã làm cho nước mất
nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn người phải lưu đầy qua Babylone, trong
số chính nhà tiên tri là nạn nhân. Những nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại
hòa bình và hiệp nhất cho dân Chúa, trung thành với giao ước Sinai thì họ lại
phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung
thành, nhà Tiên tri nhìn thấy ở chân trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi họ
Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn
chiên biết nghe lời Người. Lịch sử Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.
Thánh Phaolô, trong thư
gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy Đấng đã làm “cho đôi bên lên một, phá đổ
bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo
Tin mừng bình an. Ngài đến hiệp nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên cây
Thập giá, Ngài chịu treo lên, như gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra
như để ôn chầm cả nhân loại.
Qua bài Phúc Âm, chúng
ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và các môn đệ sau những ngày làm việc mệt
nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến
nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”. Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và
các môn đệ là điều hợp lý.
Và chúng ta thấy Chúa
Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như “trên một ngọn núi cao, xa vắng” (9,2),
trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê (5,1), bờ biển Phênicia, (7, 24-31) hay
gần nguồn sông Giodan dưới chân núi Hermon (8,27). Đây là một cuộc tĩnh tâm của
Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi vừa huấn luyện. Các Tông đồ thuật lại cho Thầy
nghe các kinh nghiệm tông đồ của mình (6,30), Thầy thông cảm với các cộng sự của
mình: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh
vắng và cầu nguyện ở đó” (1,35). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời
giảng pha lẫn với lời kinh của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.
Nhưng Chúa Giêsu và môn
đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân
chúng cũng cảm thấy không thể thiếu Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên
không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.
Tất cả chúng ta đều cảm
thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh
Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ
không bình yên khi nó không an nghỉ trong Chúa”.
Chúng ta thấy Chúa
Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các nhu cầu vật chất và tinh thần của các
môn đệ. Đời sống tông đồ là một đờ sống tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả
thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn. Phải để xa những ngày nghỉ ngơi, im
lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày
xuất quân mới, đầy nghị lực và tình thương.
Đức Gioan XVIII được
gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù công việc Giáo Hội bề bộn, với bao
nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, Ngài
rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại một bên, để dành cho Chúa một thời
gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để sống những giờ âm thầm bên Chúa
hoặc nghe lời giảng day…Trước khi khai mạc Công Đồng Vaticanô II. Ngài đã tĩnh
tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto, nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ,
để xin cho Công Đồng được kết quả.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…
Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,
Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
Người Việt nam chúng ta
không làm nghề chăn chiên, nên ít có ấn tượng về hình ảnh sống động và mối liên
hệ mật thiết giữa chủ chiên và đàn chiên. Ở nước Do thái thời Chúa Giêsu thì
khác, hình ảnh đàn chiên và chủ chăn rất quen thuộc. Môsê và các tiên tri đã
dùng hình ảnh này để tiên báo về lời hứa cứu độ, về những mục tử tốt lành Chúa
sẽ ban cho dân Chúa.
Từ sau thời Vua Salomon
trở đi, không được mấy ông vua vừa lòng dân, nhiều vị vua sống ích kỷ, không
màng chăm lo cho đất nước và dân tộc, làm cho dân chúng thất vọng về chế độ Quân
Chủ. Trong thời gian đất nước chia đôi, và nhất là thời kỳ lưu đày, bị đô hộ,
dân Israel càng mong mỏi có được vị vua công minh, vị mục tử nhân lành như lời
Chúa đã hứa qua Môsê và các tiên tri: Chúa sẽ cho xuất hiện một Vị Tiên Tri lớn
như Môsê, một Vị Cứu Tinh đem lại hoà bình cho trăm họ. Chính Tiên tri Giêrêmia
cũng nhắc lại lời hứa của Chúa cho dân nghe: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta
còn sót lại từ khắp mọi miền, Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ. Ta sẽ cho xuất hiện
các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi
hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA -Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi
trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính
trực công minh. Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên
hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng
ta."
Lời Chúa hứa qua miệng
tiên tri Giêrêmia đã được thực hiện. Đó là chính Đức Giêsu, thuộc dòng dõi vua
Đavid. Ngài đến chăn dắt đoàn chiên thuộc mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ, không phải
bằng bạo lực, quyền hành kiểu thế gian nhưng bằng tình thương, lòng nhân hậu,
bằng hy sinh, phục vụ hết mình vì hạnh phúc và hoà bình của nhân loại. Ngài là
vị vua, là mục tử tốt lành. Ngài đến không phải để tìm lợi lộc cho chính mình
nhưng tìm lợi ích cho tha nhân, cho mọi người chúng ta. Ngài là mục tử tốt lành,
biết xót thương, biết sống vì người khác. Chẳng hạn, như trong bài Phúc âm hôm
nay: dù Chúa Giêsu và các tông đồ đang có nhu cầu nghỉ ngơi, nhưng thấy đoàn lũ
dân chúng kéo đến thì không kể mệt mỏi, cực nhọc đã tiếp tục giảng dạy, ban bố
ơn lành cho họ.
Đức Giêsu vì chúng ta
mà chết trên thánh giá để giải gỡ chúng ta khỏi xích xiềng tội lỗi và sát nhập
chúng ta vào đoàn chiên của Ngài. Vậy, để đáp lại sự lo lắng và công ơn cứu
chuộc đó, chúng ta phải làm gì cho đẹp lòng Ngài được vui. Tôi nghĩ, điều đẹp ý
Ngài là:
1) Mọi người biết tuân
giữ lời Chúa đã dạy. Đó là những điều rất ích lợi cho phần hồn và cả phần xác
chúng ta nữa. Mọi người hãy luôn tỏ lòng yêu mến Chúa qua việc đi lễ đọc kinh
mỗi ngày, ít là lo giữ ngày Chúa nhựt, thương mến và sống hoà thuận với mọi
người chung quanh chúng ta vì mọi người là con cùng một Cha trên trời.
2) Chúa yêu thương
chúng ta bằng tình yêu vô biên, chúng ta cũng hãy yêu Chúa hết mình mới tương
ứng phần nào với tình yêu Chúa. Đó là lẽ phải mà mọi người cần thực hiện ngay
trên trần gian này. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy sẵn sàng đón tiếp mọi
người, nhất là những sứ giả của Chúa: như quý linh mục, tu sĩ. Và vì lòng mến
Chúa, chúng ta cũng giúp đỡ những người nghèo khổ vốn không có khả năng trả ơn
chúng ta để chính Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta sau này.
Lạy Chúa Giêsu là Mục tử tốt lành, xin cho chúng con nhận ra tình
yêu Chúa đối với chúng con và biết đáp trả cho cân xứng phần nào với tình yêu đó.
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô M. Hải Dương CMC)
Tin Mừng Chúa Nhật 16
hôm nay, Chúa Kitô nói tới nhu cầu nghỉ ngơi. Lời Chúa Kitô: "Các con hãy lui ra
một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút". Điều khuyên rất thích hợp với thời
điểm mùa hè này. Nhiều nơi thời tiết nóng bức lên tới cả trăm độ F thì việc nghỉ
ngơi, ra biển, hay tới những chỗ mát mẻ là điều cần thiết.
Theo các nghiên cứu y
học thì nhịp sống nghỉ ngơi rất cần thiết cho công việc làm hằng ngày. Sau khi
nghỉ ngơi chúng ta có thể tiếp tục làm việc lại một cách đều đặn, vì trong lúc
nghỉ ngơi thân xác chúng ta có thời gian thư dãn, phục hồi lại những năng lượng
đã mất. Số năng lượng tái tạo mới này sẽ bổ sung cho nhịp độ làm việc kế tiếp.
Nếu không có sự nghỉ ngơi, con người sẽ không thể nào tiếp tục làm việc một cách
tích cực và hiệu quả được. Hy vọng sau những ngày nghỉ ngơi dài, ngắn, chúng ta
vui tươi trở lại làm việc với tinh thần mới.
Đức Thánh Cha Bênêđict
XVI vào những ngày hè này cũng rời Vatican để bắt đầu kỳ nghỉ hè kéo dài 2 tuần
tại những vùng Bắc Ý, nơi cao, khí hậu mát mẻ. Chân Phước Giáo Hoàng John Paul
II cũng rất hay lui tới vùng Bắc Ý qua các kỳ nghỉ hè trước đây. Và vì khí hậu
Roma vào tháng 7 và tháng 8 rất nóng, nên tiếp theo sau thời gian nghỉ hè này
các Đức Giáo Hoàng thường sẽ trở về cung điện mùa hè Castel Gandolfoi, cách Rome
18,5 dặm về phía Nam, để ở đó cho đến cuối tháng 09.
Nghỉ ngơi là điều được
nhắc đến nhiều trong Thánh Kinh, như trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Ngôn sứ
Giêrêmia nói: "Ta sẽ qui tụ phần còn lại của chiên Ta... và Ta sẽ đưa chúng về
đồng cỏ, để chúng lớn lên, và tăng thêm" (Giêr. 23). Và trong bài Đáp Ca, Ngài
sẽ: "dẫn tới dòng nước, chốn nghỉ ngơi, Người dẫn tôi đi, để làm sống lại tinh
thần bải hoải." (T V. 22).
Những lời này qui chiếu
về Chúa Kitô, Ngài cẩn thận chú ý đến từng thành phần trong nhân loại. Trong bài
Tin Mừng, Chúa Kitô lo lắng cho các môn đệ, vì họ mệt nhọc sau sứ mệnh tông đồ,
rong ruổi từ những làng mạc tới những thành lân cận. Ngài nói: "Các con hãy đến
chỗ thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút." Vì nhiều khi các tông đồ bận rộn, không
có thời giờ để ăn uống nữa.
Cuộc đời chúng ta cũng
giống như cuộc đời các tông đồ là phụng sự Chúa Kitô, phục vụ gia đình và xã
hội. Trong khi phục vụ, nhiều khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi và rất cần tới sự
nghỉ ngơi. Kinh nghiệm bản thân, khi cuộc sống bận rộn, mệt nhọc, chúng ta ít
kiên nhẫn, hay sinh ra bẳn gắt, nóng nảy, ảnh hưởng không tốt đến những phẩm
chất những việc tốt lành và có khi ngay cả công việc tông đồ. Rồi từ đó biết đâu
chúng ta lại có những phản ứng tiêu cực xẩy đến cho vợ chồng, con cái, đến những
người thân, và cả những bạn bè.
Trong những bận bịu của
cuộc sống, con người cần sự nghỉ ngơi, vì theo lời Thánh Grêgoriô Naziana: "Sợi
dây không thể căng mãi và người bắn cung cần phải nới lỏng hai đầu cung, nếu
muốn sau này lại giương lên bắn nữa". Thánh Augustinô thì cho rằng Thiên Chúa
muốn chúng ta càng làm việc thì càng phải ở trong tình trạng thể lý tốt, vì Chúa
chờ đợi nhiều ở nơi chúng ta. Ngài nói: "Hỡi anh em, hãy coi Thiên Chúa yêu
chúng ta dường nào, vì khi ta nghỉ ngơi, thật là Thiên Chúa nghỉ ngơi".
Mong ước rằng tuy sự
nghỉ ngơi là một nhu cầu cần thiết, chúng ta cũng hãy biết thánh hoá những sự
nghỉ ngơi và giải trí này.
Trong sự thanh vắng,
nghỉ ngơi của tâm hồn và thân xác, mỗi người cũng hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ
Maria để Mẹ dạy chúng ta yêu thích sự yên lặng và cầu nguyện.
(Suy niệm của Lm. Thu
Băng)
Một hình ảnh được Thánh
Kinh miêu tả lột được hết ý nghĩa nhân từ và thương yêu của Thiên Chúa đối với
nhân loại, đó là hình ảnh của người chăn chiên nhân lành. Tìm đọc những trang
Cựu Ước thân thương đó, Chúa Giêsu cũng lại ví mình như những mục tử nhân lành
săn sóc đoàn chiên. Điểm nổi bật về tấm lòng mục tử của Chúa Giêsu là sự quan
tâm, chăm sóc đến bày chiêm, từ việc dẫn chiên ra đồng, đến việc tìm đồng cỏ
xanh tốt cho chiên ăn, từ việc chăm nom từng con chiên yếu đau bệnh tật, đến
việc liều chết canh giữ bày sói rừng hung dữ...... Tất nói lên cái trách nhiệm
lớn lao của một mục tử nhân lành.
Trách nhiệm của một
Tổng thống cai trị một nước. Trách nhiệm của một Cha Xứ săn sóc một xứ đạo.
Trách nhiệm của những người làm cha mẹ hướng dẫn và giáo dục một bày con trong
gia đình...... thật lớn lao, thật quan trọng. Nhiều khi chúng ta cảm thấy sợ hãi
trước trách nhiệm lãnh đạo của mình. Cũng có lúc chúng ta cảm thấy một gánh nặng
đè trên vai. Dân chúng làm reo, bổn đạo không phục quyền, con cái cãi lại cha
mẹ. Đứng trước những khó khăn như thế trong đời, chúng ta phải làm gì? Chúng ta
nên làm điều mà Chúa Giêsu đã làm là " Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà cầu
nguyện" (Mc.6:31). Khi cầu nguyện chúng ta sẽ cảm nhận được sự ủi an, sự khích
lệ và nâng đỡ của Chúa để chúng ta đương đầu với mọi khó khăn. Cũng như xưa, khi
Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn cây dầu, thì "Một Thiên Sứ từ trời hiện xuống
an ủi và nâng đỡ Người" (Lc.22:43).
Khi ban hành một tài
liệu mới, không những Đức Thánh Cha Gioan thứ 23, mà cả các Đức Thánh Cha khác
nữa, các ngài đã để giờ đọc đi đọc lại tài liệu đó đó nhiều lần và để giờ cầu
nguyện xin ơn soi sáng và khích lệ trước khi ban hành.
Đức Hồng Y Phanxicô
Nguyễn văn Thuận, kể lại: "Trong thời kỳ triệt thoái của Việt Nam Cộng Hòa năm
1975, khi tôi còn là Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, quân đội Mỹ vây quanh tòa
Giám Mục với xe tăng thiết giáp, tối đến không ai dám đi lại, đèn đóm trong tòa
Giám Mục cũng thắp có giới hạn. Tình hình khẩn cấp lâm nguy đến nơi. Đêm ấy, tôi
vào bàn giấy đọc kinh cầu nguyện và phó thác mạng sống trong tay Chúa Mẹ, Cầu
nguyện xong, tôi vừa bước ra khỏi bàn giấy mươi phút thì súng nổ nã vào bàn giấy
tôi ngồi và phòng tôi ngủ. Điện đóm nỗ tung, khói mù mịt, màn chiếu rách toang.
Nghe tiếng nổ, tôi nép vào bức tường trách né. Đạn xuyên thủng tường ngay trên
đầu tôi. Sau hồi súng nổ, cha Quản Lý từ nhà dưới chạy lên xem sét sự tình. Tạ
ơn Chúa Mẹ, tôi vẫn còn sống. Số mệnh của tôi còn vững trong tay Chúa. Sáng hôm
sau tôi ra hỏi toán lính Mỹ, họ cho hay đêm qua có Bộ Đội lẩn vào Tòa Giám Mục,
nên chúng tôi được lệnh giữ an ninh cho ngài.
Số mạng tôi ở trong tay
Chúa, Chúa gìn giữ tôi qua mọi nẻo đường. Dù bước đi trong đen tối chông gai,
suốt 13 năm tù với bao nhiêu lần tôi tưởng chết, nhưng Chúa chưa cho thí mạng
cùi. Ngài vẫn là Hy Vọng của đời tôi, Ngài luôn ở cùng tôi. Lời cầu nguyện và
tín thác vẫn là con thoi sinh mệnh của tôi". (Tâm sự riêng khi Ngài ghé thăm Đức
Hồng Y Benadô Law tại Boston).
Tổng Thống Bush nhận
thấy trách nhiệm nặng nề trên vai trước khi hạ lệnh đánh Iraq để tiêu diệt quân
khủng bố, ông đã để nhiều thời giờ thăm dò dư luận của giới lãnh đạo thế giới và
đắn đo suy nghĩ về kế hoạch mình sẽ thực hiện, cũng như ông đã dùng nhiều giờ
cầu nguyện để được lòng can đảm và sức mạnh tiếp tục thi hành một bổn phận nặng
nề và nguy hiểm trước thế giới. Cầu nguyện đã trở nên một sứ điệp thực tiễn và
cần thiết để được Chúa ban ơn và nâng đỡ.
Để kết thúc, chúng ta
hãy lập lại lời Thánh Vịnh 22, 1-3: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn
chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ
ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Tiên tri Giêrêmia hoạt
động tại Giêrusalem vào khoảng từ năm 627-587 trước Công Nguyên. Quan niệm thần
học chính của Giêrêmia cũng như các tiên tri khác là mời gọi dân chúng cải tà
qui chánh. Vì tội lỗi của dân Judah, Yahweh Thiên Chúa đã phá huỷ thành quách do
bởi Vua Babylon là Nebuchadrezzar. Tiên tri Giêrêmia là một trong các tiên tri
có thế giá nhất. Sứ mệnh của tiên tri trong thời gian bất thường, kéo dài suốt
40 năm tao loạn của cộng đồng ở Giêrusalem. Ngài cùng thông phần chia sẻ những
khốn khó và khổ đau với dân chúng. Tiên tri dẫn dắt mọi người đặt niềm tin tưởng
và hy vọng vào sự giải cứu trong tương lai. Giêrêmia đã không ngại nói thẳng và
nói thật khi phải đụng chạm với các chủ chăn. Ngài cảnh cáo: Chúa phán: “Khốn
cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đoàn chiên Ta” (Gr 23,1).
Lời Tiên tri Giêrêmia
giúp chúng ta suy tư một chút về vấn đề mục vụ và phục vụ cộng đoàn dân Chúa.
Nếu không được sai đi, không ai tự mình lãnh nhận trách nhiệm chăn dắt đoàn
chiên của Chúa. Thời Cựu Ước, Môisen đã dành ra một chi tộc Lêvi để phục vụ
trong việc cầu nguyện, dâng hương, giảng dạy lề luật, hiến thánh và chúc lành
(x. Ds 1,47-50). Tiếp theo là các vị tư tế được chọn lựa trong dân để phục vụ.
Sứ mệnh phục vụ dân Chúa là việc tốt lành thánh thiện cần được huấn luyện trau
dồi và được sai đi. Thời xưa, các vua chúa nắm quyền hành và hướng dẫn dân chúng
cả việc đạo lẫn việc đời. Các vua Chúa như vua Saulê, Đavid, Solômon và những
vua kế vị như vua Josiah, Jehoiakim và Zedekiah có ảnh hưởng rất lớn trong đời
sống tình thần của đoàn dân. Hầu hết các vua Chúa đã bị lung lạc, sống buông thả
và đưa dân chúng vào ngõ cụt thờ bụt thần của ngoại bang.
Tuần qua, chúng ta nói
về Bài Sai gởi các nhân chứng ra đi vào cánh đồng truyền giáo. Giáo Hội đã quan
tâm rất nhiều về sự huấn luyện các nhân chứng tin mừng cả về trí, đức và dục.
Mỗi một tu sĩ nam nữ hay tân linh mục đã được thừa hưởng gia sản giáo dục rất
phong phú. Để trở thành một linh mục, ít nhất các ứng viên cũng phải trải qua
nhiều năm tháng tu luyện và học hỏi ở trường lớp. Về mặt tri thức, qua chương
trình trung học phổ thông, các ứng sinh phải có bằng cử nhân Triết học, hoặc nếu
có cử nhân về các môn học khác, thì cần các tín chỉ 2 năm về Triết học. Phải
trải qua 4 năm thần học với bằng cử nhân Thần học và Cao học (MDiv. hoặc MA)
cộng với các kinh nghiệm từng trải trong thời gian giúp xứ và mục vụ thử luyện
tại các giáo xứ, trường học hay bệnh viện… Các linh mục dòng còn cần thời gian
dài hơn trong sự huấn luyện cả về tu đức lẫn học hỏi chuyên môn. Điều quan trọng
hơn hết là các ứng sinh linh mục cần có thời gian sống và kết hợp tương quan mật
thiết với Chúa Giêsu linh mục. Tất cả các việc mục vụ và phục vụ của các linh
mục và tu sĩ đều quy về Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi linh mục nhận Bài
Sai về các cộng đoàn, giáo xứ hoặc sinh hoạt trong các ban ngành chuyên môn, họ
khả dĩ có đủ khả năng để phục vụ. Nói chung, linh mục nào cũng có sự hiểu biết
căn bản về Giáo Hội và các môn thần học, nhưng mỗi vị có những cá tính khác
nhau. Căn cốt của sự hiểu biết như nhau, nhưng mỗi người có những khả năng
chuyên môn và cách hành xử khác nhau. Mỗi linh mục phải chịu trách nhiệm trước
mặt Chúa và bề trên về công việc mục vụ và phục vụ của mình. Mỗi linh mục và tu
sĩ đều có địa chỉ được sai đến, có cộng đoàn để phục vụ và trách nhiệm phải chu
toàn.
Lý tưởng thì rất cao
trọng và ý hướng phục vụ rất tốt lành. Trong thực tế cuộc sống, các mục tử không
tránh khỏi những sự yếu đuối, sai lầm và trì trệ. Là con người, đôi khi cũng bị
rơi vào những tham, sân, si hoặc lười biếng trễ nải. Các linh mục cũng có khi sa
vào những cạm bẫy nghiện ngập như bài bạc, rượu chè, truỵ lạc và tham lam của
cải thế gian. Rồi nữa, mục tử cũng không tránh khỏi những đua đòi, gây ảnh
hưởng, tìm chỗ đứng và bon chen chợ đời làm suy yếu đời sống đạo. Tuy nhiên,
chúng ta phải công nhận rằng có nhiều linh mục sống đức độ, thánh thiện và phục
vụ quên mình cho đoàn chiên. Có những linh mục cũng vì nhiệt tâm cho nhà Chúa,
nhưng không đáp ứng thoả mãn những đòi hỏi của giáo dân nên gây ra nhiều hệ luỵ.
Có khi vì linh mục muốn chu toàn lẽ đạo theo lề luật của Giáo Hội mà bị coi là
khó khăn, cố chấp và độc tài. Có khi vì đi theo chính dòng truyền thống của Giáo
Hội, cũng có thể bị giáo dân chê bai là lỗi thời và chậm tiêu. Bởi thế, trong
lòng Giáo Hội, nơi các cộng đoàn và giáo xứ luôn xảy ra những lủng củng, chia rẽ
và bất cập. Trong mọi trường hợp, chúng ta đừng vội xét đoán và kết án, kẻo bé
cái lầm.
Thường thì mục tử nào
cũng có ý ngay lành muốn đàn chiên của mình được đoàn kết, yêu thương và gắn bó
nhưng thực tế cuộc sống có nhiều phức tạp khó lường. Những thị phi và hoạ phước
của con người có thể gây những phiền hà trong đời sống cộng đoàn. Chúng ta biết
rằng nếp sống chung luôn là một sự thách đố. Người ta thường nói “trăm người
trăm ý”. Ý kiến của ai cũng hay và cũng có lý, nhưng có thể không luôn thích
hợp. Chính những sự khác biệt và mâu thuẫn này đã tạo nên những hố sâu ngăn cách
và tị hiềm lẫn nhau. Các mục tử cần có sự khôn ngoan với lòng bao dung và biết
lắng nghe để giúp khai thông những bế tắc. Các mục tử cần sự thinh lặng cầu
nguyện và tìm sự hướng dẫn qua lời chỉ dạy của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta hãy
học theo gương của Thánh Phaolô Tông đồ sống khiêm hạ và phó thác. Thánh Phaolô
đã tự khoe mình: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi,
để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2 Cr 12,9). Linh mục như những bình
sành dễ bể, chúng ta phải cậy dựa vào tình thương và ân sủng của Chúa để thắng
vượt các cơn cám dỗ.
Điều quan trọng hơn hết
là Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy lui về nghỉ ngơi một chút. Chúa Giêsu bảo các
ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi
chút” (Mc 6,31). Mỗi mục tử hãy dùng thời gian để kiểm điểm và suy xét lại đời
sống dâng hiến của chính mình. Ý thức trong mọi suy tư, lời nói, hành động,
trách nhiệm và bổn phận của mình. Biết rằng Chúa không đòi chúng ta phải nên
giống người này hay người nọ, nhưng hãy chu toàn sứ mệnh được trao ban. Đây là
một thách đố trường kỳ đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn và khiêm hạ. Thời gian nghỉ
ngơi dưỡng sức để phục hồi năng lực rất quan trọng. Nghỉ ngơi để xả bớt những
gánh nặng lo âu và căng thẳng. Chúng ta thường tò mò tìm hiểu những thế giới bên
ngoài, sao không dùng đôi phút để tìm hiểu con người bên trong của mình. Tìm nơi
thanh vắng nghỉ ngơi sẽ làm tâm hồn chúng ta được thư giãn để kết hợp với Chúa
trong nguyện cầu.
Linh mục dù phải chạy
đua với công việc thường ngày nhưng luôn nhớ gắn kết với Chúa Giêsu trong đời
sống cầu nguyện. Chúng ta không thể đáp ứng thoả mãn các nhu cầu cuộc sống trong
mọi trường hợp. Chúng ta phải biết tự giới hạn và chọn lựa thích đáng. Đôi khi
phải biết nói ‘không’ khi những đòi hỏi không cần thiết. Người ta thường nói cả
nể cho nên sự dở dang là thế. Người mục tử của ngày hôm nay đòi hỏi phải hy sinh
phó thác và từ bỏ nhiều hơn. Linh mục luôn học sự cảm thông và nhẹ nhàng chia
sẻ. Thông thoáng mà không quá dễ dãi. Nguyên tắc mà không khắc nghiệt.
Lạy Chúa Giêsu là Linh Mục Thượng Phẩm. Chúa là chủ chiên tốt
lành đã dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, xin cho chúng con trở nên những mục
tử biết hy sinh cuộc sống riêng để phục vụ tha nhân trong Chúa. Lạy Chúa, xin
nhậm lời chúng con.
(Suy niệm của Lm.
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Sau hơn một tháng trời
vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa
biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận
thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo: "Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi
thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Một lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúng ta phải công nhận
Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt
mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp
tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào
người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác
không? Làm vậy người chủ sẽ được lợi lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu
dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa mạnh hơn con người nhiều, nhưng chúng ta
cao quý hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau
một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt
chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công việc? Tại sao chúng ta quý trọng sức
khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của mình?
Làm bất cứ công việc gì
cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta
hay quên chúng ta có thể xác, nó là một bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ
được sử dụng theo một chừng mực nào đó thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không
biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu
chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu
chúng ta không chết yểu, chắc làm việc cũng không đắc lực bao nhiêu.
Vì thế, nghỉ ngơi sau
khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần
hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu
xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc, chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải
mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa, nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự
nhiên không tốn tiền, nên người ta còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt
mỏi nữa.
Chúng ta cần nghỉ ngơi,
nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có
phải cuộc đời chúng ta và hầu hết thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn,
nghề nghiệp hoặc những công việc linh tinh, không tên tuổi chiếm hết không? Ban
ngày làm việc, tối về lại nghĩ đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã
với mọi thứ việc. Chúng ta ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày
xưa: ngoài những công việc cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc
phải lưu tâm tới vấn đề thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong
dong thoải mái. Cứ ngày ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì
ngồi lại với nhau uống trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.
Chúng ta bây giờ thì
khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai
cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở
sở làm thì sốt ruột trông cho mau được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này
việc khác. Người ta có cảm tưởng cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là
bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày
nào cũng thế, cũng những việc ấy, cũng những vất vả ấy, cũng mệt nhọc ấy...Có
khi chúng ta làm việc đến quên mình và có thể quên cả Chúa luôn.
Vì thế có người nói
rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở
thành phố, là không biết nghệ thuật nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông
núi nọ. Làm việc này chưa xong đã thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương
lai mà không biết sống cho hiện tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích
thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc
những chứng bệnh: mất ngủ, nhức đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị
huyết áp cao, và hình như có nhiều người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng
khùng nữa...
Tóm lại, qua bài Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta: không những chúng ta phải hăng say
làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải biết dành thời giờ để nghỉ ngơi
nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn, phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy
nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm việc rồi cũng phải có lúc nghỉ.
Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những
người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai không làm mà nghỉ là người lười.
Vì vậy, "Hãy nghỉ ngơi
đôi chút" như Chúa Giêsu nói, không phải là một việc hao phí thời giờ. Trái lại,
đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ ngơi để cho thể xác và tinh thần được
thư giản, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người
có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu rõ chân giá trị của cuộc sống và ý
nghĩa thâm thúy của đời người.
(Suy niệm của Lm.
Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Mục tử và đàn chiên là
một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu
Ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa
và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a
cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm sóc dân, Ngài lên án những hành vi
ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt những mục tử tốt lành khác để lãnh
đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi
Đa-vít để lãnh đạo dân Ngài trong công bình chính trực, đem lại cảnh thái bình
thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị
mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã
được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết một chút tâm tình của vị
mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh
riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Lý do Chúa Giêsu bảo
các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một,
ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết
những việc đã làm và những lời đã giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi,
thêm vào đó, Tin Mừng cho biết các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất
nhiều người đến xin các ông dạy dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm
lánh đi để khỏi bị quấy rầy và tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm
đến các môn đệ và cảm thông với những vất vả của các ông, nhưng Chúa quan tâm
đến con người hơn là công việc, Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi
cho thân xác, một chút lắng đọng cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để
sống tình thầy trò, tương giao mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa
khuyên các môn đệ cần phải có thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để
có thể duy trì hoạt động được lâu bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu
hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ
ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động tông đồ hiệu quả, càng phải năng tĩnh dưỡng tâm
hồn.
Qua đó Chúa Giêsu muốn
dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen, đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù
phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta cũng phải biết dành
thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ. Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy
nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời, mới đối diện với chính mình và
liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ như thế
thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mu-ke-di, một hôm hỏi thầy giáo cũ của
mình, là một tu sĩ dòng Bê-na-rét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có
quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra
thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại
kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?”. Vị tu sĩ
hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản
không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi
khoản một nguồn sống không?”. Mu-ke-di thưa: “Thưa thầy, con không tin như vậy”.
Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất
bại là ở đó”.
Ông Uyn-li-am Phin-lơ, môt doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất
chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hằng năm
thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông.
Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một
mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe ra-đi-ô hay ca nhạc, không
xem ti-vi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ
thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình,
biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
Quả thực, có người đã
nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ
cái bút máy, đồng hồ, máy may, ra-đi-ô, ti-vi, máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực,
hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một
nhà bác học thời danh, rất thông minh và có tài đặc biệt, một lần có người hỏi
ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được nhiều cái mới lạ như vậy?”. Ông trả
lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật
vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước. Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện
giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do
chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị va chạm, người ta đã tìm ra được luật
đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu-tinh dứt bỏ được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên
một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất
linh hồn ích gì” mà Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế
trần sang con đường đạo đức, quên mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng
sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong
những năm giảng dạy, cho dù bận rộn với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm
nơi thanh vắng để hầu chuyện với Chúa Cha.
Chúng ta cũng vậy,
trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm thía ý nghĩa của đời ng